Phân tích bài thơ Nhớ rừng của tác giả Thế Lữ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
“Thi trung hữu họa” Các cụ xưa đã nói như thế. Thế Lữ bằng chất liệu ngôn ngữ đã vẽ nên bộ tranh tứ bình về “Chúa sơn lâm” khá hoàn hảo trong bài thơ “Nhớ rừng” của mình. Bức tranh một vẽ chân dung tâm hồn hổ vào một đêm trăng đầy mơ mộng:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”
Cảnh có màu vàng óng ả của trăng, màu xanh trong vắt của nước suối đại ngàn, màu trắng đen mờ ảo của cỏ cây hoa lá. Hổ ta đang đứng trên bờ, say sưa ngắm nhìn cảnh vật đẹp đến say lòng ấy. Ta có cảm giác hổ say mồi thì ít mà say đắm vẻ đẹp huyền ảo của đêm trăng thì nhiều. Vũ trụ có trăng, lúc khuyết, lúc tròn, lúc lên, lúc lặn để rồi hổ ta không biết bao lần ngây ngẩt trước ánh trăng vàng tung tóe. Nhớ làm sao những đêm vàng đấy mộng mơ ấy! Và giờ đây nó càng quý vô ngần vì nó là đêm của tự do và ảo mộng. Bức tranh hai, Thế Lữ cho chúa tể rừng xanh đối diện với sự gào thét của thiên nhiên hùng vĩ vào những ngày mưa:
“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”
Mưa rừng không phải là “mưa bay như khói qua chiều”, không phải là “mưa giăng mắc cữi”, càng không phải là “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng” mà mịt mù, dữ dội rung chuyển cả núi rừng. Thế Lữ thật tài tình khi biết lấy sự gào thét dữ dội của thiên nhiên, sự ngã nghiêng của cây cối, cảnh tuôn rơi ồn ào của ngày mưa làm phông nền cho một hổ ta điềm nhiên lặng ngắm giang sơn đổi mới của mình. Quả là bức tranh của một nghệ sĩ kỳ tài. Còn đây là một cảnh khác, tươi sáng, tưng bừng của buổi bình minh.Chúa tể rừng xanh lúc nầy đang ngon giấc:
“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”
Một buổi bình minh tinh khôi rạng rỡ, chim chóc reo ca, cây cối gọi mời, mọi vật đã thức giấc đón bình minh lên. Riêng hổ ta lại ngủ, một giấc ngủ lạ đời : giấc ngủ “tưng bừng”. Hổ có giấc ngủ riêng của hổ, cảnh vật xung quanh có ồn ào, sôi động bao nhiêu càng làm cho giấc ngủ hổ thêm say, giấc mơ hổ thêm đẹp. Chỉ bằng vài nét chấm phá má cảnh có âm thanh, có màu sắc, đường nét hài hòa, sống động. Bức tranh cuối cùng tuyệt đẹp, đẹp một cách lộng lẫy và bi tráng:
“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”
Bức tranh nầy khác hẳn với ba bức tranh trên, từ màu sắc, đường nét, đến ánh sáng. Màu vàng óng ả của trăng, màu đen mờ ảo của những trận mưa rừng, cả màu hồng tươi của nắng mới đều không còn nữa thay vào đó là màu đỏ rực của máu và của ánh mặt trời sắp tắt. Hổ ta lúc nầy cũng không còn say sưa, mơ mộng như đêm nào, ngày nào mà đã hiện nguyên hình là một mãnh thú. Bên hổ, dưới chân hổ là cảnh “lênh láng máu” của những con thú yếu hèn. Ngoài xa, trên bầu trời cao rộng mênh mông ấy mặt trời cũng chỉ là một mảnh. Ta có cảm giác mặt trời cũng bé đi qua cái nhìn của hổ. Trong bức tranh, mọi vật hình như nhỏ hơn, chìm hẳn chỉ có hổ ta đứng đấy uy nghi, chễm chệ với tư thế là chúa tể của muôn loài. Chúa sơn lâm đẹp thật, một vẻ đẹp dữ dằn ghê gớm của một mãnh thú đang say mồi.
Quả là một bộ tranh tứ bình hoàn hảo, với sự phối cảnh hài hòa, bố cục mỹ cảm, đường nét thanh tao, gam màu chuẩn xác. Thế Lữ đã để lại bộ tranh hổ bằng ngôn ngữ có một không hai trong lịch sử văn học.
nhớ k cho mình nhé
học tốt-.-
Mười sáu câu đầu bài thơ Nhớ rừng là một bức tranh tứ bình đặc sắc. Thế Lữ đã vẽ lên bốn cảnh rừng núi với những vẻ đẹp khác nhau, trong những khoảnh khắc khác nhau.
Trước tiên là cảnh đêm vàng rực rỡ “ta say mồi đứng dưới ánh trăng tan”. Cảnh vật ở đây thật thơ mộng, lãng mạn: không gian trời nước như được nhuộm vàng bởi ánh trăng huyền ảo. Từ "vàng” ở đây có thể hiểu theo nghĩa là: huy hoàng, vàng son. Đó chính là thời kì huy hoàng, thời vàng son của chúa sơn lâm. Hổ như một thi sĩ thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng giữa rừng suối. Mặc dù vậy, ở nó vẫn toát lên dáng dấp của một mãnh thú với sức mạnh phi thường khi” uống ánh trăng tan. Cảnh ở đây vừa có cái thơ mộng lại vô cùng huy hoàng.
Bức tranh thứ hai là cảnh” những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”. Đó là những ngày mưa dữ dội, bốn phương ngàn như xoay chuyển, trắng xóa một màu mưa. Và ở đây, hổ là một lãnh chúa đứng lặng ngắm giang sơn của mình thay màu áo mới. Cảnh ở đấy thật dữ dội nhưng cũng thật tráng lệ. Nó gợi sự đổi thay và gợi cả uy quyền của chúa sơn lâm.Càng tráng lệ bao nhiêu thì con hổ càng đau xót bấy nhiêu với thực tại tù túng, giam cầm.
Bức tranh thứ 3 là cảnh” bình minh cây xanh nắng gội”. Con hổ như một bậc vương giả trong giấc ngủ tưng bừng với tiếng ca ru là khúc nhạc rừng của ngàn vạn bầy chim.
Bức tranh thứ 4 là những hoàng hon nắng đỏ qua con mắt "chúa tể muôn loài”. Đó là những chiều "lênh láng máu sau rừng” và vầng mặt trời sắp lặn chi là một đối thủ bé mọn đang hấp hối trước con mắt đầy uy lực của chúa sơn lâm
“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật? ”
Về nghệ thuật, ta thấy Thế Lữ sử dụng những hình ảnh rất mới lạ so với thơ ca đương thời như” mảnh mặt trời”. Nếu như thay từ “chết” bằng từ” lặn” và bỏ đi từ “mảnh” thì câu thơ sẽ trở nên lạc lõng bởi nó không phù hợp với logic tâm trạng và tầm vóc của vị chúa tể rừng già. Chính câu thơ này đã nâng tầm vóc của con hổ, của cả đoạn thơ lên mức phi thường và kì vĩ. Bên cạnh đó đọan thơ có những hình ảnh phi thường, độc đáo, cách sắp xếp thời gian phong phú; sử dụng màu sắc độc đáo. Những yếu tố đó góp phần tạo nên một bức tranh tứ bình hiện đại mà vo cùng giá trị. Ở đây, ta còn thấy, tác giả sử dụng đại từ”ta” lặp lại nhiều lần. Nó có tác dụng thể hiện sự kiêu hãnh, khí phách ngang tàng của con hổ, đồng thời tạo nhạc điệu tràm bổng cho câu thơ. Đoạn thơ còn sử dụng liên tiếp các câu nghi vấn để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng. Cách sử dụng câu hỏi tư từ với từ hỏi” đâu” và câu cảm thán ”Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu” cho thấy sự gắn bó máu thịt của con hổ với núi rừng - nơi nó từng được sống đúng với tư thế dũng mãnh, hào hùng của một vị chúa tể. Đồng thời, những câu hỏi ấy cứ dồn dập mỗi lúc một xoáy sâu vào tâm can, cho thấy nỗi quằn quại, nhớ tiếc quá khứ tới đớn đau tột cùng của con hổ. Bởi lẽ, tất cả những hình ảnh huy hoàng, lẫm liệt kia chỉ là "những ngày xưa” là thời ”nay còn đâu”. Tác giả còn sử dụng nghệ thuật đối lập: hình ảnh thiên nhiên và dáng vẻ của con hổ hoàn toàn đối lập với hình ảnh con hổ nằm dài trong cũi sắt đầy ngao ngán và bất lực ở đoạn 1. Quá khứ càng hào hùng bao nhiêu thì hiện thực càng xót xa tủi nhục bấy nhiêu. Nó khiến cho nỗi khát khao được sống tự do của con hổ càng thêm nhức nhối.
Có thể thấy bộ bức tranh tứ bình này là những bức tranh thiên nhiên đẹp một cách huy hoàng và đầy bí ẩn. Con hổ hiện lên ở trung tâm mang những dáng dấp khác nhau nhưng đều đầy uy lực. Đây cũng chính là những câu thơ xuất sắc nhất trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.
Bạn tham khảo :
Mở bài:
Thế Lữ là một ngôi sao sáng nổi bậc trên bầu trời thi ca Việt Nam đầu thế kỉ XX. Tuy không trở thành một hiện tượng như Xuân Diệu hay Hàn Mặc Tử hay Chế Lan Viên nhưng ông lại là người đặt những viên gạch đầu tiên trong công cuộc xây dựng tòa lâu đài Thơ mới.
Thân bài:
Nhà thơ Thế Lữ:
Xuất thân và vị trí của Thế Lữ trên văn đàn:
Thế Lữ sinh năm 1907 mất năm 1989 tại Hà Nội, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ. Ông là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu nổi tiếng ở Việt Nam thế kỉ XX. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng. Ông còn được xem là người tiên phong đi đầu trong phong trào đổi mới nền thơ ca Việt Nam đầu thế kỉ XX và là cây bút chủ chốt đặt những nền móng đầu tiên khỏi xướng của phong trào Thơ mới.
Những hoạt động chính của Thế Lữ:
Thế Lữ học chữ Nho khi lên 8 tuổi và sớm được học chữ Quốc ngữ khi lên 10. Năm 1925, ông vào học Cao đẳng Tiểu học Bonnal ở Hải Phòng, học được 3 năm thì bỏ. Những năm học Thành chung, ông chịu tác động từ tinh thần yêu nước của giới học sinh, qua báo Việt Nam hồn từ Pháp gửi về, cũng như từ những thầy giáo như Trịnh Đình Rư, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Hữu Tảo.
Ông sớm tham gia các hoạt động nghệ thuật, trở thành nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới ngay từ buổi đầu. Thơ ông hướng đến biểu lộ tâm trạng của lớp người yêu nước nhưng chưa tìm thấy được con đường để cứu nước. Giọng thơ trong trẻo, đôi khi đượm buồn, thấm đẫm tâm trạng uẩn uất.
Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói, trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ, hoạt động cho đến sau Cách mạng tháng Tám. Ở thời kì này, Thế Lữ hoạt động vo cùng sôi nổi, có đóng góp rất lớn cho sự phát triển nền kịch sân khấu Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Ngoài ra, Thế Lữ còn viết truyện ngắn, truyện trinh thám, truyện đường rừng, truyện kinh dị. Những tác phẩm của ông có cốt truyện lôi cuốn, hấp dẫn, giọng kể thâm trầm, cốt truyện đầy kịch tính gây được sự say mê trong lòng người đọc.
Khi kháng chiến nổ ra, ông hăng hái tham gia kháng chiến chống Pháp, làm kịch kháng chiến cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của nhân dân. Khi đất nước giải phóng, Thế Lữ vẫn tiếp tục cống hiến sức mình vì sự nghiệp phát triển nền văn học dân tộc. Năm 1986, ông qua đời tại Hà Nội.
Tác phẩm chính của Thế Lữ:
Sáng tác chủ đạo của Thế Lữ ở giai đoạn đầu là thi ca. Ông để lại các tập thơ nổi tiếng như: Mấy vần thơ (1935), Mấy vần thơ, tập mới (1941). Thế Lữ còn viết kịch, truyện ngắn, truyện dài. Tác phẩm kịch: Dương Quý Phi (1942), Người mù (1946), Cụ đạo sư ông (1946), Đoàn biệt động (1947), Đề Thám (1948), Đợi chờ (1949), Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952). Tác phẩm truyện: Vàng và máu (1934), Bên đường thiên lôi (1936), Lê Phong phóng viên (1937), Mai Hương và Lê Phong (1937), Đòn hẹn (1937), Gói thuốc lá (1940), Gió trăng ngàn (1941), Trại Bồ Tùng Linh (1941), Thoa (truyện ngắn, 1942), Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953), Tay đại bợm (truyện ngắn, 1953). Ông còn viết lời bài hát: Xuân và tuổi trẻ (1946) phổ lời cho nhạc bởi La Hối
Thế Lữ cũng là dịch giả nhiều vở kịch của Shakespeare, Goethe, Schiller,… Dù thành công ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật, song khi nhắc đến Thế Lữ người đọc thường nhớ đến một nhà thơ tài hoa, người mở đầu cho sự cách tân trong phong trào thơ Mới ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Đánh giá về Thế Lữ:
Có thể nói, Thế Lữ là một con người đa tài. Ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được nhiều thành công. Ở ông, người ta nhân thấy một sức sáng tạo mạnh mẽ, một ý chí phi thường, một nhân cách cao đẹp. Đánh giá sự nghiệp Thế Lữ, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã ghi: “… công đầu trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến Thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy ở tương lai Thơ mới. Thơ ông không phải chỉ mới ở lời mà còn mới cả ở ý nữa”…
Để ghi nhận điều này, trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã trân trọng nêu tên ông ở đầu tập sách như một nhà tiên phong. Còn Xuân Diệu ca ngợi Thế Lữ được “người đương thời ưa thích nhất giữa các nhà thơ mới khoảng 1932 – 1937”. Có lẽ, có được vinh dự đó là do bởi thơ Thế Lữ lúc nào cũng nhẹ nhàng, tinh tế; vừa như tiếng ca ở trong lòng lúc bay bổng, lúc âm thầm; lại vừa như tiếng gió thổi, tiếng sáo reo lúc xa lúc gần, có sức mê hoặc lạ thường.
Dù như thế nào, ảnh hưởng và vai trò tiên phong của Thế Lữ đối với thơ mới vẫn được công nhận. Trong quyển Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh nhận xét: “Thế Lữ như vừng sao đột hiện, ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Người ta không thể không nhìn nhận cái công Thế Lữ đã dựng thành nền thơ mới ở xứ này…Độ ấy thơ mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam… Thế Lữ không bàn về Thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”.
Đó cũng là đánh giá danh giá nhất dành cho một nghệ sĩ đã cống hiến hết mình vì sự nghiệp phát triển của nền văn học nước nhà.
Phong cách thơ Thế Lữ:
Thế Lữ được xem là người tiên phong đề cao cái đẹp trong nghệ thuật. Ông công khai tuyên bố làm nghệ thuật là đi tìm cái đẹp. Bởi thế, thơ ông thể hiện niềm say mê cái đẹp, đi tìm cái đẹp ở mọi nơi, ở mọi âm thanh và sắc màu. Nhiều bài thơ của ông thể hiện hình ảnh cõi tiên tuyệt sắc, hay cảnh vật trong trạng thái tràn trề vẻ đẹp. Cái đẹp trong thơ Thế Lữ là cái đẹp thoát tục, thanh cao và lý tưởng.
Thơ Thế Lữ cũng có nhiều bài nói về tình yêu, tuy nhiên tình yêu trong thơ Thế Lữ thường thiên về sự thanh cao, mộng ảo, dè dặt chứ không đắm say, cuồng nhiệt như các bài thơ tình thời kỳ sau. Ông chủ trương lấy tình yêu để tôn vinh vẻ đẹp con người, lấy khổ đau làm cảm hứng nghệ thuật. Ông tìm thấy ở đó là vẻ đẹp của niềm hi vọng mong manh, của đức hi sinh thầm kín mà vĩ đại.
Thơ Thế Lữ thể hiện cái tôi muốn thoát ly với thực tại xã hội-đó cũng là một xu hướng của các nghệ sĩ lúc bấy giờ muốn tìm một hướng vượt thoát cho tâm hồn mình. Ông tạo dựng hình ảnh một tài tử bất hòa với xã hội, chán ghét cuộc sống giả tạo, ông muốn sống nghênh ngang, cô độc và đầy kiêu hãnh.
Ông muốn dược sống tự do, thoát khỏi tù túng để đến với thế giới bao la, rộng lớn hơn. Dường như thực tại nhỏ bé không thể bao chứa nổi tâm hồn đang sôi nổi của ông. Tâm sự và khát vọng của Thế Lữ cũng là tâm sự và khát vọng của thế hệ thanh niên tri thức tiểu tư sản lúc bấy giờ đang cuộn mình tìm lấy một lối đi riêng.
Thế Lữ đã tạo nguồn cảm hứng sáng tạo cho các thế hệ kế cận. Có thể nói ông là người gây ảnh hưởng nhiều nhất đối với các nhà thơ mới tài năng sau này như Xuân Diệu, Huy Cận, Anh Thơ,…
Sau khi qua đời, Thế Lữ tiếp tục được ghi nhận như một nghệ sĩ tiên phong, đặc biệt có công lớn trong việc mở đầu phong trào Thơ mới và là “người đầu tiên đưa hoạt động nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở nước ta trở thành chuyên nghiệp và có công xây dựng nó trở thành một nghệ thuật sân khấu hoàn chỉnh”.
Năm 2000, Thế Lữ được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật trong lĩnh vực sân khấu cho hai tác phẩm Cụ đạo, Sự ông và Đề Thám, hai vở kịch được ông sáng tác và biểu diễn trong những năm kháng chiến. Ông đã được dựng tượng đặt ở chính giữa Nhà truyền thống của Nhà hát Kịch Việt Nam.
Thế Lữ đã được đặt tên cho một số đường phố ở Đà Nẵng, Hải Phòng, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên khắp thế giới.
Kết bài:
Những gì có giá trị sẽ luôn còn mãi với thời gian. Tuy ngày nay, thị hiếu tiếp nhận và ý thức nghệ thuật đã có nhiều thay đổi nhưng những bài thơ của Thế Lữ viết ở giai đoạn đầu vẫn còn làm say mê người đọc, những vở kịch của ông vẫn còn được tiếp tục dàn dựng công diễn. Thế Lữ thực sự là một nghệ sĩ đích thực, là niềm tự hào của nền thi ca dân tộc qua mọi thời đại.
THAM KHẢO
Nhà thơ Thế Lữ sinh năm 1907 mất năm 1989, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê quán: làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh.
Thuở nhỏ, Thế Lữ học ở Hải Phòng. Năm 1929, học xong bậc Thành chung, ông vào học Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, sau đó một năm (1930), ông bỏ học. Năm 1932, Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự lực văn đoàn và là một trong những cây bút chủ lực của báo Phong hoá, Ngày nay. Năm 1937, ông bắt đầu hoạt động sân khấu, làm diễn viên, đạo diễn, lưu diễn tại các tỉnh miền Trung... và có hoài bão xây dựng nền sân khâu dân tộc. Cách mạng tháng Tám, ông hào hứng chào đón cách mạng, và lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.
Tác giả đã xuất bản: Mấy vần thơ (thơ, 1935); Vàng và máu (truyện, 1934); Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936),... Ngoài ra Thế Lữ viết nhiều kịch bản: Cụ Đạo sư ông (kịch, 1946); Đoàn biệt động (1947); Đợi chờ (1949); Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952); Thế Lữ cũng là dịch giả của nhiều vở kịch của sếch-xpia, Gơ-tơ, Sin-le và Pô-gô-đin,...
Thế Lữ là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Bài Nhớ rừng đã gắn liền với tên tuổi của ông. Nói đến Thế Lữ không thể không nói đến Nhớ rừng.
Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới những năm đầu thế kỉ XX đã tạo ra sự bùng nổ mãnh liệt, một cuộc cách mạng thật sự trong địa hạt văn chương, nhất là thơ. Những thể thơ cũ (tiêu biểu từ thơ Đường luật) với khuôn khổ cứng nhắc, niêm luật gò bó đã không dung chứa nổi, không còn phù hợp với những tư tưởng, cảm xúc dào dạt, mới mẻ, lúc nào cũng chỉ chực tung phá. Đổi mới thể thơ, đổi mới hình thức câu thơ, các nhà thơ mới đồng thời đưa vào đó những dòng cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ, tựa như những dòng nham thạch bỏng đang tuôn chảy tràn trề. Nhớ rừng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu mới này.
Tham khảo
Thế Lữ ( 1907 - 1989 ) tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, quê ở Bắc Ninh ( nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội ), là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới chặng đầu. Với một hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn, ông đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và được xem là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho Thơ mới, " dựng thành nền Thơ mới ở xứ này" ( Hoài Thanh ).
Ngoài sáng tác thơ, Thế Lữ còn viết truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện đường rừng lãng mạn,... Sau đó, ông chuyển hẳn sang hoạt động sân khấu và là một trong những người có công đầu xây dựng ngành kịch nói ở nước ta. Ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Các tác phẩm chính: Mấy vần thơ ( thơ, 1935 ), Vàng và máu ( truyện, 1934 ), Bên đường Thiên lôi ( truyện, 1936 ), Lê Phong phóng viên (truyện, 1937 ),...
Thơ ông mang tâm sự thời thế đất nước nhưng không bế tắc, u buồn mà là tiếng thơ thiết tha bi tráng. "Nhớ rừng" được in trong tập "Mấy vần thơ" có thể xem là bài thơ hay nhất trong đời thơ Thế Lữ và cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong phong trào Thơ mới. Cái mới của bài thơ vừa ở hình thức nghệ thuật vừa ở nội dung cảm xúc.
Về Nghệ thuật: Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, mỗi câu tám chữ, gieo vần liền, vần bằng, vần trắc hoán vị liên tiếp dều đặn tạo nên giọng thơ vừa tha thiêt vừa hào hùng.. Cách ngắt nhịp trong bài thơ rất linh hoạt. Khi ngắn ( đoạn 3 ), khi dài ( đoạn 2 ), khi dồn dập gấp gáp, khi dàn trải đều đặn, khi tha thiết, say xưa, lúc xót xa nuối tiếc... tất cả đều góp phần thể hiện những cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình - vị chúa sơn lâm, cũng chính là nỗi niềm của cả một thế hệ. Giọng điệu thơ đa dạng, biến hóa mà lại nhất quán, liền mạch. Ngôn ngữ thơ có nhiều sáng tạo, sinh động, gợi cảm. Nhiều câu thơ vắt dòng, nhiều biện pháp tu từ, nhân hóa, ẩn dụ, tương phản, điệp ngữ. Những dòng thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, câu chữ táo bạo, khiến " ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường như nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nói.
Về nội dung: Đây là một khúc trường ca bi tráng của con hổ nhớ rừng xanh. Thế Lữ không chỉ tạo hình một mãnh hổ oai linh mà còn diễn tả thành công tâm trạng phong phú trong nỗi nhớ rừng da diết khôn nguôi của nó.
Sử dụng thủ pháp tương phản nhuần nhuyễn, xuyên suốt bài thơ, Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Con hổ hình tượng trung tâm trong bài - vị chúa tể rừng xanh với vẻ oai phong, lẫm liệt, đầy kiêu hãnh trong quá khứ. Giờ đây đang từng ngày gặm nhấm nỗi buồn chán và tẻ nhạt trong cũi sắt, bị giam cầm, bị mất tự do, bị hạ bệ và chế giễu.
Song ý thức được vị thế oai linh rừng thẳm nên dẫu sa cơ, con hổ vẫn giữ trọn cho mình niềm kiêu hãnh. Cái thế giới quanh nó đều trở thành tầm thường, thảm hại. Trong mắt nó con người cũng chỉ là một lũ " ngạo mạn ngẩn ngơ", bọn gấu thì " dở hơi", cặp báo thì " vô tư lự". Nó không chịu hạ mình với thế giới hiện tại, còn trong quá khứ, núi rừng đại ngàn là thế giới của riêng nó. Trong thế giới ấy, nó tự tin đối diện và làm chủ cả vũ trụ với những đêm trăng vàng, những bình minh, những ngày mưa và cả những chiều lênh láng máu.
Bề ngoài con hổ như buông xuôi, chấp nhận cảnh sa cơ, tuyệt vọng trước hoàn cảnh: " Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua". Nhưng thực chất ẩn sâu trong lòng nó là một khối căm hờn, là niềm " uất hận ngàn thâu". Nó mất tự do nhưng không khuất phục, không để mất đi niềm kiêu hãnh của vị chúa tể muôn loài. Đặc biệt sống trong tù hãm, nhục nhằn, thể xác bị giam cầm nhưng trong trái tim, trong tâm hồn mãnh hổ vẫn ngân lên giai điệu ngọt ngào của tình thương nỗi nhớ về những ngày xưa. Tâm hồn nó vẫn tha thiết với tiếng gọi rừng xanh, tiếng gọi tự do. Chính điều đó thể hiện sự chối bỏ hiện thực tù túng, ngột ngạt, giả dối trong hiện tại một cách gay gắt.
Từ việc mượn lời con hổ nhớ rừng xanh, tác giả đã thể hiện tâm sự u uất của thế hệ mình, thời đại mình. Đó là niềm uất hận đối với hiện thực xã hội tù túng, ngột ngạt. Một hiện thực khiến họ chán ghét, muốn chối bỏ nó. Họ khao khát mãnh liệt được vươn tới cái phóng khoáng, tự do. Bài thơ đã nói lên tiếng nói của cái tôi đòi giải phóng, cái tôi dám phủ nhận thực tại, muốn khẳng định mình. Đồng thời, Nhớ rừng còn gửi tâm sự yêu nước thầm kín của người dân Việt Nam mất nước thuở ấy.
So với những thi phẩm của các nhà thơ mới nổi tiếng cùng thời, Nhớ rừng của Thế Lữ có điểm chung là đều bế tắc trước cuộc sống thực tại, chán ghét sự tù túng, chật hẹp của nó, muốn thoát li khỏi nó để tìm đến với một thế giới tinh thần khác. Song điềm khác chính là xu hướng thoát li, Xuân Diệu, Tế Hanh, Hồ DZếnh thì tìm đến với tình yêu như Xuân Diệu đã từng giục giã: " Nhanh với chứ, vội vàng lên với chứ / Em! Em ơi! Tình non sắp già rồi". Lưu Trọng Lư tìm đến nỗi sầu rụng: " Em không nghe mùa thu / Dưới trăng mờ thổn thức". Chế Lan Viên tìm đến với tinh cầu giá lạnh: " Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh / Một vì sao trơ trọi cuối trời xa". Nguyễn Bính lại tìm đến với sự chân quê nơi thôn dã....Còn Nhớ rừng của Thế Lữ là bài thơ hoành tráng về con người thời đại đầy chất lãng mạn trữ tình. Đặc biệt trong đó còn kín đáo gửi nỗi niềm yêu nước, hoài niệm về quá khứ hào hùng oanh liệt của cha ông. Đây cũng chính là điểm tiêu biểu của bài thơ.
Có thể nói Nhớ rừng vừa là khát vọng về thiên nhiên, tự do phóng khoáng, khát vọng làm chủ giang sơn, vừa là tiếng thở dài mang ý nghĩa vĩnh biệt một thời oanh liệt. Nhưng Nhớ rừng cũng là một tuyên ngôn quyết liệt không hòa nhập với thế giới giả tạo cho dù thời oanh liệt trong quá khứ đã lùi xa.
Thế Lữ là người bằng sáng tác của mình đã đưa đến thắng lợi quyết định cho Thơ mới buổi chào đời. Mà nói đến Thế Lữ, người ta nghĩ đến bài Nhớ rừng. Vậy thì, cũng có thể nói rằng, chính Nhớ rừng là tác phẩm quan trọng nhất đã dẹp được những lời bè dỉu xuất phát từ phái “thơ cũ” về cái gọi là “dốt nát”, “ngẩn ngơ”, của “bọn” làm Thơ mới. Và sự ngạo mạn của vị chúa sơn lâm trong Nhớ rừng phải chăng đã dẹp đi những lời dè bỉu kia? Hay nói cách khác, hình tượng con hỗ trong bài thơ chính là hình ảnh tiêu biểu của tác giả và những tâm sự đau đáu một nỗi niềm tiếc nuối.
Tại sao Nhớ rừng có thể làm được điều đó? Dĩ nhiên là vì nó hay, hoàn hảo về hình thức và điều đặc biệt quan trọng đối với nhiều người thuộc phái “thơ cũ” là nó có “nghĩa lí”. Nhớ rừng không viết về đề tài tình yêu. Bài thơ tràn ngập một không khí bi tráng, có thể gợi nhiều suy nghĩ về thời thế, về hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ. Không phải không có lí khi một số người nghiên cứu đã nhấn mạnh tâm sự yêu nước ở bài thơ (Sự nhấn mạnh ấy hẳn chứa đựng nhiều ý nghĩa vào thời điểm Thơ mới lâm cơn “bĩ cực”). Ra đời trong một bối cảnh lịch sử – xã hội và văn hóa đặc biệt của đất nước, hệ từ vựng gồm những căm hờn, uất hận, cũi sắt, nhục nhằn, tù hãm, sa cơ, tình thương, nỗi nhớ, ngày xưa, ngày thâu, ngàn xưa, giang san, nước non… không phải, không thể được sử dụng một cách vô ý. Nó dễ đụng đến chỗ nhạy cảm của tâm hồn Việt, làm thức dậy những kí ức, là khuấy động những nỗi niềm… Từ bài thơ, ta nghe đồng vọng tiếng thở dài u uất của bao anh hùng thất thế từng “gậm một khối căm hờn”…
Tuy nhiên, quá cường điệu hay bác bỏ ý nghĩa này của Nhớ rừng đều là việc làm không thỏa đáng. Nếu quá cường điệu, ta buộc phải xem Nhỡ rừng như một hiện tượng đi lạc hệ thống (“hệ thống” những sáng tác của Thế Lữ và của đại đa số các nhà Thơ mới khác) mà điều này thì rất khó được chấp nhận. Nếu bác bỏ, cho rằng bài thơ chỉ thể hiện khát vọng đòi giải phóng cái tôi cá nhân thôi, thì phải lí giải làm sao về cái giọng rất ưa dùng thủ pháp khoa trương, phóng đại, thích tuyệt đối hóa vấn đề, thích dựng lên những tương quan đối lập? Vả chăng, nếu nỗi ám ảnh về thân phận một người dân mất nước vốn tồn tại thực trạng tâm não của hầu hết người Việt Nam, thì vẫn có thể khẳng định: Những quan hệ xã hội mang tính chất tư bản chủ nghĩa mới được du nhập vào Việt Nam (dù là quái dị do tương tác với các điều kiện thuộc địa), vẫn chưa thể bộc lộ hết tất cả mặt phi nhân của nó như sau này để khiến cái tôi mới chào đời phải thất vọng não nề, phải chán nản cùng cực, phải kêu lên phẫn uất như con hổ trong bài thơ của Thế Lữ. Ngay trong trường hợp nhà thơ Việt Nam có được trải nghiệm nỗi hoài nghi sâu sắc đối với xã hội tư sản, một cách gián tiếp, thông qua văn học lãng mạn Pháp (vốn không phát triển đồng pha với văn học lãng mạn Việt Nam) thì vấn đề không khác. Như vậy, sự lựa chọn chỉ một trong hai ý nghĩa nói trên vô tinh đã làm mờ bản sẳc của bài thơ, khiến ta không thấy hết đóng góp độc đáo của Thế Lữ. Nhớ rừng, như mọi bài thơ khác, vốn đa tầng, đa nghĩa, có thể gợi nhiều chiều hướng cảm thụ khác nhau. Bài thơ giống như sự kết tinh của hàng loạt mối quan hệ phong phú, phức tạp tồn tại trong xã hội Việt Nam một thuở. Và khi đạt tới giá trị kết tinh ấy, nó dành quyền tồn tại như một thông điệp gửi tới muôn đời, mời gọi một sự “thông diễn” không hạn chế.
Cái tứ của Nhớ rừng không phải là của riêng Thế Lữ. Ta đã thấy nó hiển hiện ở bài Sư tử trong chuồng của Jean Aicard, thấp thoáng ở bài Chim hải âu của Charles Baudelaire. Nói rộng ra nữa, tứ “nhớ rừng” nằm trong một cái tứ phô quát của thơ lãng mạn; đối lập hiện thực với ước mơ, đối lập cái nhân tạo với cái tự nhiên; thân sống trong hiện thực, hiện tại, trong cái tầm thường, cái nhân tạo thô kệch mà hồn thì bay tới cõi ước mơ, hướng về quá khứ vàng son, khao khát được sống cao thượng, trong sạch giữa thiên nhiên khoáng dã.. Qua cái tứ phô quát đó, ta thấy lộ diện một cái tôi bất hòa với xã hội, bất mãn với chính mình (đúng hơn là với tình trạng phải cảm chịu sống trong cảnh tủ hãm của mình), bất an triền miên với chính nội tâm quá ứ đầy, quá phong phú mà mình trót mang theo như một định mệnh. Xét từ góc độ này, có thể nói Nhớ rừng đúng là một bài thơ lãng mạn, đã cho ta thấy rõ những đặc điểm thi pháp riêng của loại hình thơ này. Tất nhiên, một tứ thơ của thời đại lãng mạn vẫn có thể hợp nhất vào nó những cái tứ đã từng xuất hiện trong lịch sử thi ca. Giữa Nhớ rừng của Thế Lữ và Chim trong lồng của Nguyễn Hữu cầu không phải không có mối liên hệ nào đó.
Chỉ ra tính phổ quát của tứ thơ ở bài Nhớ rừng không hề làm giảm nét độc đáo trong cách hiện thực hóa tứ thơ của Thế Lữ. Nếu ở bài Sư tử trong chuồng, Jean Aicarrd luôn tạo sự gián cách giữa nhân vật trữ tình và con sư tử, tả con thú không may này như một đối tượng khách quan – đối tượng đưa lại cho anh ta nhiều suy ngẫm về số phận bi đát của của kẻ mất tự do, thì ở bài Nhớ rừng, Thế Lữ (hay đúng hơn là nhân vật trữ tình) đã thực sự hóa thân vào con hổ. Đọc bài thơ, đến lượt độc giả cũng thấy mình bị đồng nhất với hồ, nhập cảm hoàn toàn tâm trạng hỗ đế có thể kêu lên những lời trầm thống, bi thiết. Hẳn nhiên, tiếng kêu đòi tự do, đòi thoát khỏi kiếp sống tầm thường, tù hãm của kẻ đang trải nghiệm thấm thìa nỗi đau bị giam cầm hẳn phải lay động hơn, phải “bật máu” hơn tiếng kêu hộ của một kẻ đồng cảm đứng ngoài. Chính Thế Lữ tự ý thức được hoàn toàn về đặc điểm này của bài thơ, bởi vậy, với tư duy lí tiếp nhận được từ phương Tây, ông phải cẩn thận chú thích dưới nhan đề Nhớ rừng một dòng chữ: Lời con hổ ở vườn Bách thú, ý chừng muốn lưu ý độc giả đừng vì nhập hồn vào bài thơ mả cứ mãi tưởng mình là hổ! Nghịch lí thay, càng làm cái việc phân định rách ròi, Thế Lữ càng cho thấy mức độ đồng nhất cao giữa đối tượng miêu tả và cái tôi trữ tinh! Nếu nói cho chi li, ngoại trừ lời chú thích đã nêu vốn thuộc về phần nhan đề, trong phần “ruột” của bài thơ cũng có một câu – chỉ một câu thôi – là thể hiện cái nhìn gián cách. Đó là câu Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. Thoạt đọc, ta vẫn thấy đó là câu “tự tình” của chính con hổ, nhưng đọc kĩ, ta lại nhận ra một ánh nhìn, một quan sát đến từ phía bên ngoài. Còn các câu khác như Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng/ Lượn tấm thân như sóng cuộc nhịp nhàng và Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan bên ngoài xem chừng giống như nét vẽ của nhân vật trữ tình đứng gián cách, kì thực lại là những câu biểu hiện của nhân vật trữ tình vào con hỗ là khá triệt để, và điều đó đã đem lại những hiệu quả tác động lớn không ngờ. Đây hiển nhiên Ịà một nét đặc sắc của bài thơ. Chính nó đã đưa vào bức họa lổng thể về chân dung cái tôi của Thơ mới một nét rắn rỏi, giúp người đọc hiểu rằng cái tôi này không phải chỉ là có dáng dấp ẻo lả, yếu đuối và không phải bao giờ cũng chỉ biết quay lưng lại vấn đề xã hội. Phải mạnh mẽ, tự tin, và nữa phải có “hồn thơ rộng mở” (Các chữ Hoài Thanh) đến độ nào thì mới có thể thống nhất mình với chúa sơn lâm được chứ!
Như vậy, màu sắc tự biểu hiện của cái tôi trữ tình ở bài thơ là rất đậm. Nhưng không vì thế mà chất tạo hình của Nhớ rừng lại không nỗi bật. Hai đặc điểm này không phải trái mà tương hợp với nhau. Lại vẫn là một nét trội trong thi pháp của loại hình thơ lãng mạn mà ở đó cái tôi trữ tình ưa đối tượng hóa lòng mình được tự ngắm, tự ve vuốt! Trong bốn đoạn của bài thơ Nhớ rừng, đoạn hai là đoạn thể hiện khả năng tạo hình của ngòi bút Thế Lữ rõ nét hơn cả. Câu chữ nỗi gồ lên, khiến hình tượng đập mạnh vào thị giác, thính giác. Những gào, những hét, những thét vừa trùng lặp vừa biến hóa, kích mãi lên một cảm giác mãnh liệt. Cũng thế, những sơn lâm, bóng cả, cây già, lá gai, cỏ sắc, những dõng dạc, đường hoàng, nhịp nhàng, những quắc, tan, chuyển, gội, lênh láng…trông giống như những vạch màu ngắn, liên tiếp, trùng trùng trong tranh Vincent Van Gogh, đưa đến ấn tượng về trạng thái mê man lên đồng của kẻ đang bị vây riết bởi những kí ức hào hùng và của sự sáng tạo. Từ kí ức của con hỗ, tất cả vẻ đẹp man dại, phóng khoáng của chốn nước non hùng vĩ hiện ra mồn một, động cựa, biến đổi không ngừng. Rất ít hoặc hầu như không có những hòa sắc xám nhạt, tan loãng, mơ hồ mà chủ yếu là những màu nguyên đậm đà, tươi tắn, kích thích. Chi tiết ken dày trong đoạn thơ và nói chung là trong cả bài thơ, cho thấy một nhãn thức tạo hình rất khác với nhận thức tạo hình của thơ cỗ điển, của loại hình văn nhân họa vốn thích cái vô ngôn, thích chừa khoảng trống cho sự lắng mình chiêm nghiệm, sự thả hồn phiêu diêu theo những ý niệm huyền hồ. Rõ ràng những điều đó là biểu hiện của một cái tôi muốn chiếm đoạt và chế ngự, muốn choàng cái bóng của minh lên tất cả, muốn toàn quyền áp đặt và phân phối cảm xúc của mình lên thế giới chung quanh, gom thế giới vào ta và biến ta thành tất cả thế giới. Nhưng với Nhớ rừng, Thế Lữ không chỉ tiếp thu thuần thục kiểu tạo hình mới tràn đầy nhiệt hứng của loại hình lãng mạn mà còn rút tỉa được cả những kinh nghiệm nghệ thuật quý báu của phái Thi Sơn (La Parnasse) vốn thích những đường nét mô tả đầy tính điêu khắc với thế giới hữu hình. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được rất rõ cái trương lực được tạo nên bởi cuộc tranh chấp giữa việc buông thả mình theo những cảm xúc say sưa và việc tiết chế chính những cảm xúc đó, không để chúng làm tan loãng khối hình thực có của các đối tượng không được nhắc đến. Xét từ góc độ này, có thể gọi Thế Lữ không phải là một nhà thơ lãng mạn thuần thành theo kiểu Alphonese de Lamartine, Alfred de Musset… Dấu vết ảnh hưởng Leconíe de Lisle không thể nói là không đậm, từ niềm thích thú quan sát những tập tính của động vật đến cách làm nổi bật dáng vẻ uy nghi, bí ẩn của thiên nhiên trong các bài thơ. Nói cụ thể, có lẽ câu thơ Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng đã được Thế Lữ viết ra trong sự ám ảnh của các câu thơ của Leconte de Lisle: Đôi khi một con trăn ngủ, nóng quá, uốn lưng như sóng cuộn, vẩy da lấp lánh dưới ánh mặt trời/ Con voi đầu đàn, đầu như một khối đá, xương sống hình cung, mỗi khi voi bước, lại uốn cong lên một cách mãnh liệt… (Bài Đàn voi)… Báo đen, kể chuyện săn bò và ngựa/ Hung hiểm muộn phiền, nó bước đều đặn quay về/Theo chiều dài những thân cây già da rêu đã chết/ Nó đến, cọ tấm lưng vạm vỡ oằn lên… (bài Giấc mơ của báo đen)…
Từng có ý kiến cho rằng để tô đậm cái phi thường của hình tượng trung tâm (con hổ), nhà thơ đã tạo nên sự tương phản gay gắt giữa tầm vóc oai dũng của hồ với cái tầm thường không chỉ của hoàn cảnh sống nơi vườn Bách thú mà còn của “cả bao tạo vật, cảnh trí lớn lao trong vũ trụ”. Các dữ kiện có trong bài thơ cho phép ta nhìn nhận vân đề theo một cách khác. Có một sự phân biệt đối lập rất rõ ai cũng thấy giữa cảnh hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng với cảnh sơn lâm, cây già, nghĩa là giữa cảnh/ cái nhân tạo với cảnh/cái tự nhiên. Con hổ chỉ ghét và khinh miệt hoàn cảnh sống tầm thường, giả dối, tù hãm mà nó không may lâm vào chứ không hề chối bỏ, coi rẻ môi trường tồn tại đích thực, nguyên thủy của mình. Nêu hổ thấy tất cả đều như nhau, đều không ra gì, chả hóa ra sự phân biệt – đối lập ở trên là vô nghĩa? Con hổ nhớ rừng, gọi rừng là chốn ngàn năm cao cả, âm u, là cảnh nước non hùng vĩ, oai linh, ghê gớm… cơ mà! Bao nhiêu trìu mén tụ về trong câu Ta lặng ngắm giang sơn ta đội mới, và cũng có bao nhiêu nỗi khát khao được chia sẻ với rừng dồn chứa ở tiếng gọi cuối bài – Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi! Hỗ không có rừng thì còn gi là hỗ! Rừng là cuộc sống của hổ, là nơi nuôi dưỡng, giữ gìn, khơi dậy và nhân lên sức mạnh huyền bí của hỗ, cho hỗ có được cái ý thức mình là chúa tể cả muôn loài, có thể ngự trị, vùng vẫy để làm nên cả một thời oanh liệt…
(Lưu ý thêm: Rừng trong sáng tác của các nhà thơ lãng mạn, đặc biệt trong thơ Thế Lữ, luôn là một biểu tượng của sức mạnh nguyên thủy, của cái tự nhiên mà con người đã đánh mất. Vì vậy, nó thường được đặt ra như một tấm gương giúp người ta thấy được chân diện của cảnh sống, tình trạng sống như hiện tại, và từ đó khơi dậy nỗi nhớ nhung hoặc niềm khắc khoải tìm về.
Dù được đặt trên cùng một “mặt phẳng” của trang thơ, câu Khinh lũ người kia ngạo mạn ngần ngơ và câu ta biết ta chúa tể cả muôn loài chính thuộc về hai cấp độ tứ khác nhau (tứ bao quát toàn bài và tứ bộ phận của đoạn), hướng tới những tiêu điểm nghệ thuật không giống nhau. Câu thơ sau và một số câu khác của đoạn hai như Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc/ Là khiến cho mọi vật đều im hơi; Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt Để ta chiếm lấy phần riêng phần bí mật không toát lên giọng điệu khinh miệt đối với “cả thế giới”, mà toát lên ý thức khẳng định uy quyền của một kẻ hiểu sức mạnh của mình và đang có được sức mạnh đó, muốn thi thố sức mạnh đó (theo giấc mộng ngàn thoát ra từ vườn Bách thú). Nhận định “Hình ảnh “mảnh mặt trời” gợi ra được cái nhìn tàn bạo của con Hỗ muốn dẫm nát vũ trụ” (Nam Chi) nếu được chấp nhận thì cũng chỉ nên xem nó như một cách diễn đạt đầy ấn tượng về sự tự tin vào bản thân và khát vọng chiếm hữu toàn bộ thế giới của con hổ (cũng là của cái tôi cá nhân) mà thôi. Không thể diễn dịch nó ra thành cái ý nói về sự đối chọi mang tính chất “khùng điên” của con hổ đối với tất cả. Ngay trong khát vọng muốn chiếm hữu thế giới đã bao hàm thái độ khẳng định cái “đáng kể” của thế giới rồi! Con hổ có ý thức được giới hạn sức mạnh của mình hay không? Chính tiếng kêu Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? đã nói lên tất cả! Đó là chỗ “đáng quý”, “đáng yêu” và “đáng thương” của hổ. Đó cũng là chỗ giá trị nhân bản, nhân loại của hình tượng con hổ được thể hiện rõ.
Từ khát vọng và bi kịch của con hổ, ta đọc thấy khát vọng và bi kịch không chỉ của cái tôi cá nhân một thời mà còn của chung con người trong mọi thời. Khả năng tích hợp ý nghĩa của hình tượng của hổ trong Nhớ rừng quả thực là lớn lao.
Chúc bn hk tốt!!!
- không hạn định về số câu chữ
- không gò bó về vần nhịp, niêm luật
- lời thơ tự nhiên giảm tính công thức ước lệ
- có sự đổi mới trong cảm xúc, tư duy; cái tôi cá nhân được đề cao, bộc lộ một cách trực tiếp
Vì:
+ Thể thơ tự do
+ Không tuân theo lối vần luật, niêm luật như các thể loại thơ cổ
+ Khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái "tôi" của tác giả, thẩm mỹ hóa cái cuộc sống rối ren, tơi bời của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến và là tâm trạng buồn sầu, ưu uất, lạc lõng giữa vòng đời.
Học tốt nhé!
Với nhân vật con hổ trong vườn thú được miêu tả như một tính cách dữ dội, lớn lao, đầy dằn vặt và khát vọng, Nhớ rừng ít nhiều đã hoà vào cái mạch đã từng đem lại cho thi ca biết bao nhiêu danh tác. Lẽ dĩ nhiên, không ai dám đặt con hổ của bài thơ bên cạnh những tầm cỡ như Prômêíê bị xiềng hay Hamlet hay Người tù xứ Capcadơ. Nhớ rừng mới chỉ là tiếng nói đớn đau của một kẻ đã mất hết niềm tin được tự do, mất hết ước mơ chiến thắng. Con hổ ở đây đã không thể làm được gì hơn là “nằm dài” trong cũi sắt, để “trông ngày tháng dần qua”, và nói về cái thuở oanh liệt vẫy vùng như những tháng ngày không bao giờ trở lại. Cũng không có trong nó cái khát khao tương truyền đã được người anh hùng Nguyễn Hữu cầu diễn tả trong những vần thơ lồng lộng ngợp say:
Bay thẳng cánh, muôn trùng Tiêu, Hán
Phá vòng vây, bạn với kim ô.
Có lẽ sẽ không là khiên cưỡng: nếu nói rằng Nhớ rừng với hình tượng con hổ nằm dài ấy, đã tạo nên tư thế của những con người đã thôi nghĩ đến hành động, những con người mà nhiệt tình làm cách mạng, mà hoài bão muốn góp phần mình vào một sự đổi thay đã không còn.
Thế nhưng, con hổ, hình tượng trung tâm của bài thơ, dù có chịu mất tự do, nhưng cũng không chịu mất đi niềm kiêu hãnh. Trong khổ đau, trong cảnh “tù hãm”, trong nỗi “nhục nhằn”, nó vẫn biết tự phân biệt mình với những kẻ đã đi hoàn toàn tầm thường đồng hoá đến cả tinh thần, ở đây, vấn đề không phải là xem xét “tác phong quần chúng” của con hổ, phê bình nó “không một chút ưu ái gì đối với những con vật như con gấu, con báo cùng số phận như nó và nằm sát ngay cạnh chuồng nó” như ai đó đã bàn. Ở đây, cũng như chim ở trong lồng, ở cả Prômêtê bị xiềng và Hamlet nữa, sự đối lập giữa hai hạng người, hai cách sống là cách thức nghệ thuật vẫn thường dùng để làm nổi bật lên cái kích thước cao cả và tô đậm thêm cảm hứng đầy tính bi kịch của một tâm hồn bị khổ đau chứ nhất quyết không chịu hạ mình trong bất hạnh.
Thế Lữ, ít nhất là một lần trong một đời thơ, đã cố gắng xây dựng cho mình một hình tượng thơ như thế. Con hổ ở Nhớ rừng biết mình chiến bại nhưng vẫn chưa chịu làm tôi tớ cho sự “tầm thường, giả dối” của cảnh ngục tù. Nó bất lực, nhưng không hoàn toàn khuất phục và thoả hiệp. Nó vẫn “ghét những cảnh không đời nào thay đổi”, nghĩa là còn ước ao những sự đổi thay. Bị giam thân trong lồng sắt chật, nó vẫn tha thiết vươn tới những chân trời rộng rãi của thế gian với “giấc mộng càng to lớn”, và của thời gian với “niềm uất hận ngàn thâu”. Bài thơ, cho tới cùng, vẫn thể hiện một tinh thần, chối từ thực tại, dẫu mới chỉ là sự chối từ trong mộng tưởng mà thôi.
Sự xung đột, chống đôi quyết liệt, thường xuyên, không thể dung hoà giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại vật với nội tâm, giữa thấp hèn với cao thượng chính là cơ sở để kết cấu nên toàn bộ bài thơ. Có cảm giác như nghe được từ Nhớ rừng một bản xônát bốn chương với sự luân chuyển, đan xen của hai nhạc đề tương phản, trong đó, chủ đề chính, chủ đề “nhớ rừng” bỗng đột ngột chuyển vút lên sau những nốt nhạc đã ngày càng chậm chạp, buồn nản ở chương đầu, và cứ vang to mãi, dào dạt mãi, dâng mãi đến cao trào với tất cả niềm phấn hứng của tâm linh để rồi chợt tắt lặng đi nặng nề, uất nghẹn. Và cuối cùng trong sự quật khởi chủ đề chính lại quay trở lại không còn hùng tráng được như trên, những thiết tha, những nuối tiếc. Bài thơ kết thúc trong tiếng gọi tha thiết với rừng già của một kẻ biết mình đã sắp phải chấm dứt cuộc vượt tù trong tâm tưởng. Như thế bằng việc luôn luôn chuyển đổi tình cảm và giọng điệu thơ sang phía đối lập với nó, nhà thơ đã tìm đúng cái cách thức hữu hiệu để diễn tả hết các cung bậc cảm xúc của một tâm trạng cô đơn và đầy day dứt.
Nhưng chưa hết, sự hướng tới những khát vọng mãnh liệt, cách chơi những tương phản mãnh liệt, nghĩa là một nét thi pháp lãng mạn chủ nghĩa, còn đựơc Thế Lữ sử dụng khá thành công trong phạm vi một đoạn, một chương. Chẳng hạn, hãy đọc hai câu thơ đầu tiên. Hãy xem xét một chút kĩ hơn đoạn thơ thứ hai, đoạn thơ hay nhất toàn bài, đoạn thơ mà với nó, tác giả - nói lên cách của A-đư Muytxê - đã đem lại cho ta cả một “bữa tiệc đời” của âm thanh, của đường nét và màu sắc. Ở đây tác giả phải thực hiện một nhiệm vụ cực khó khăn: “diễn tả cái quyền thế độc tôn của vị chúa sơn lâm trên cái nền của ảnh thiên nhiên hùng vĩ”. Phải miêu tả con hổ như thế nào một khi đã huy động vào bài thơ cả “tiếng gió gào ngàn” và “giọng nguồn hét núi”, cả “những đêm vắng bên bờ suối” tràn ngập “ánh trăng tan” và những cánh rừng chiều, trong buổi hoàng hôn, trông như “lênh láng máu”?
Giải pháp mà tác giả đã tìm ra - dù tự giác hay không vẫn là đối lập, một sự đối lập có thể nói là lộng lẫy. Nhà thơ đã kể cho con hổ lấy sự trật tự, nhịp nhàng để chế ngự cảnh đại ngàn ghê ghớm nhưng hỗn độn, và chế ngự cái động của đât trời bằng cái tĩnh uy nghi của bản thân. Giữa lúc cảnh sơn lâm đang gào thét lên “khúc trường ca dữ dội”, con hổ “bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng”, và thêm nhiều dường như bởi đó mà âm thầm trở lại. Con hổ say, đứng uống ánh trăng và đợi chết mảnh mặt trời, con hổ lặng ngắm giang sơn khi bốn phương ngàn đang chuyển động, con hổ ngủ trong khi lao vật tưng bừng hợp tấu khúc bình minh. Trong sự đối lập ấy của các gam màu nghệ thuật, thiên nhiên hùng tráng đã trở thành cái nền để làm tôn lên hình dáng của một quyền uy tối thượng.
Nhớ rừng được sáng tác vào những năm phong trào Thơ mới khai sinh, vì thế, thật là kì lạ trong những ngày uống nước ấy, nó đã đạt tới vẻ đẹp có lẽ đã có thể gọi là cổ điển. Từ tình cảm cho đến thể thơ, nó mang một sức sông, một vẻ phóng khoáng vẫy vùng mà “thơ cũ” không thể có, nhưng lại không hề có sự xộc xệch và thiếu cô đúc mà nhiều bài thơ mới buổi đầu tiên ấy đã mắc phải. Có những câu, từ nội dung ý nghĩa đến khuôn âm thanh điệu và sự ngắt nhịp của lời thư đều phô bày một giá trị tạo hình đặc sắc: “Lượn lấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng”. Có thể dẫn Lơcôngtơ đư Lin chẳng hạn, để chứng minh Thế Lữ đã chịu ảnh hưởng của thơ phái Thi Sơn. Song lại khó có thể cho rằng những câu thơ như thế này, đặt trong bố cục chung của hai bài thơ, lại “giống như những bức ren bằng cẩm thạch... hơn là giống với những lời thơ sinh động của con người”, như M.Gorki đã nói về chính những nhà thơ Thi Sơn ấy.
Cho nên, cũng có thể hiểu được vì sao Vũ Đình Liên lúc ấy lại nói bằng chỉ hai câu:
Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.
“Cũng có sức mạnh như một tuyên ngôn (manifeste) để bênh vực cho Thơ mới”, về mặt ấy, Nhớ rừng chính là một trong những viên đá tảng đầu tiên và chắc chắn nhất của một nền thơ, mà vượt lên trên tất cả sự phức tạp của nó vẫn là một phần đóng góp không thể bác bỏ cho sự tiến lên của nghệ thuật thơ ca của nước ta.
Là sự hoài vọng của một kẻ dẫu sao cũng đã thấy bất lực rồi vồ một “chôn thiên đường đã mất”. Nhớ rừng cũng chỉ nằm trong phạm trù của chủ nghĩa lãng mạn thông thường, mà cơ sở của nó, như Phaghê đã xác định lừ lâu, là “sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng mãnh liệt muôn thoát ra ngoài thực tại”.
Song cũng có thể giải thích được hiện tượng nhiều chiến sĩ cách mạng lúc đó thích và thuộc bài thơ. Chính cái chất bi tráng đã làm cho Nhớ rừng khác với phần nhiều các bài thơ lãng mạn bấy giờ, kể cả thơ của chính Thế Lữ, dù sau này nhà thơ còn viết Tiếng hò bên sông, Con người vơ vẩn hay Giây phút chạnh lòng. Sự nổi loạn trong tâm tư con hổ đang “gặm một khối căm hờn trong cũi sắt” kia rất có thổ đã làm nặng nê thêm, để con người cảm thấy chán ghét thêm cái ách áp bức nặng nồ của một cuộc đồi đang cần phủ định. Và giấc mư Iráng lộ ây, gại ra một bôn sự hống hách, hão huyền, vẫn có khả năng làm hăng say thêm một tinh thần cách mạng, làm dậy thêm chất men của cái “khát vọng muốn trở nên tốt đẹp hơn bây giờ”, điều mà nhà văn cách mặng M.Gorki cho là duy nhất thiêng liêng
Nhớ rừng là bài thơ kiệt tác của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với nhạc điệu du dương, với cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, đặc biệt với hình tượng con hổ, bài thơ Nhớ rừng đã chinh phục mỗi chúng ta, đã chiếm lĩnh nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn bao người trong hơn nửa thế kỷ qua.
Con hổ được thi sĩ nói đến với bao cảm thông và ngưỡng mộ. Nó đang nằm trong cũi sắt vườn Bách thú. Chúa sơn lâm trong cảnh tù hãm vô cùng cay đắng uất ức căm hờn đã tích tụ, đã chứa chất thành một khối. Không căm hờn sao được khi phải nằm dài, trông ngày tháng dần qua trong cũi sắt? Không uất ức, cay đắng sao được khi chúa sơn lâm đang bị lũ người giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm, đang trở thành thứ đồ chơi, với cặp báo vô tư lự trong vườn bách thảo? Thế Lữ đã thể hiện tâm trạng cay đắng, căm hờn của con hổ mất tựu do đầy ám ảnh:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua…
(…), Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm…
Qua đó, ta càng thấy rõ: Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn (Truyện Kiều – Nguyễn Du); ta càng thấm thía: trên đời nghìn vạn điều cay đắng - Cay đắng chi bằng mất tự do (Nhật ký trong tù – Hồ Chí Minh).
Năm tháng dần trôi qua, chúa sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhớ rừng. Nhớ thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…
Như tư thế cao sang, oai hùng của ta. Một cái bước chân, một tấm thân lượn sóng, một cái vờn bóng… Tất cả đều dõng dạc, đường hoàng. Một chữ ta vang lên đầy tự hào của chúa sơn lâm:
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Quyền uy của ta là tuyệt đối. Mọi vật đều phải khiếp sợ, phải im hơi khi mắt thần của ta đã quắc, ta biết giữa chốn thảo hoa, ta là chúa tể cả muôn loài:
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Nỗi nhớ rừng thiêng, nhớ quyền uy… của chúa sơn lâm chính là nhớ những năm tháng không thể nào quên. Nỗi nhớ ấy chính là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng.
Hổ nhớ rừng là nhớ đến những kỉ niệm chói lọi một thời vàng son, một thời oanh liệt. Cảnh vật tráng lệ. Nhạc của thơ cũng là nhạc của rừng.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyền bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật!
Than ôi! Thời oanh liệt này còn đâu?
Các luyến láy, điệp ngữ: “đâu những đêm vàng…, đâu những ngày mưa.. đâu những bình minh…, đâu những chiều…, nay còn đâu?” xuất hiện nối tiếp trong năm câu hỏi tu từ tạo nên nhạc điệu du dương, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc tình thương nỗi nhớ của hùm thiêng sa cơ, nhớ rừng, tiếc nuối một thời oanh liệt nay đã trở thành hoài niệm, thành dĩ vãng. Chúa sơn lâm nhớ đêm, nhớ ngày, nhớ bình minh, nhớ chiều tà, nhớ suối, nhớ trăng, nhớ cảnh giang sơn trong màn mưa rừng, nhớ cây xanh nắng gội, nhớ chim hót tưng bừng lúc bình minh, nhớ mặt trời gay gắt trong khoảnh khắc hoàng hôn… Nỗi nhớ tiếc ấy là nỗi đau buồn bị tước đoạt mất tự do, cũng là nỗi khao khát tự do. Thế Lữ đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu, dào dạt cảm xúc để thể hiện nỗi nhớ rừng của con hổ… Một tiếng than như xiết lấy lòng người, khêu gợi và lay tĩnh:
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Bị sa cơ, bị tù hãm trong cũi sắt. Phải xa rừng nên nhớ rừng. Đau đớn và uất hận biết bao giờ nguôi? Như một tiếng thở dài ngao ngán:
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.
Vị chúa sơn lâm, nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già rồi uất hận căm ghét những cảnh không đời nào thay đổi tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa tầm thường giả dối nhỏ bé:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém.
Uất hận cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ bé do lũ người kia ngạo mạn bày ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi cảnh nước non hùng vĩ. Nhớ rừng là nhớ vương quốc tự do ngày nào:
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa.
Trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo giấc mộng ngàn. Chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nhớ thương bồi hồi, da diết:
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Nhớ rừng là một trong mười bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương, cảm xúc dào dạt. Hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.
Trong hoàn cảnh bài thơ ra đời (1934), tâm trạng tủi nhục, đau đớn, uất hận… của con hổ nhớ rừng đồng điệu với bi kịch của nhân dân ta đang rên xiết trong xích xiềng nô lệ. Nhớ rừng là khao khát sống, khao khát tự do. Bài thơ như một lời nhắn gửi kín đáo, thiết tha về tình yêu giang sơn đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là giá trị của tự do. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện tuyệt vời tư tưởng vĩ đại ấy.
Trong những năm tháng rực rỡ nhất của phong trào Thơ mới, Thế Lữ hiện lên như một vì sao mai sáng lòa, lấp lánh. Còn lại với thời gian hôm nay, Thế Lữ gắn bó với bạn đọc bởi bài thơ nổi tiếng nhất của ông: bài thơ Nhớ rừng. Bài thơ ấy dưới tiêu đề của nó, tác giả đã đề một dòng chữ nhỏ: “Lời con hổ trong vườn bách thú”. Xuyên suốt tác phẩm, người đọc hiểu rằng bài thơ là những tâm sự đầy uất hận của con hổ trước cảnh đời hiện tại bức bách, tù túng; nó mơ về những ngày xưa tung hoành, lẫm liệt. Bài thơ đã kín đáo bộc lộ tấm lòng yêu nước của người dân ta thuở đó. Nhưng không dừng lại ở đó, thành công của bài thơ còn nằm ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt mĩ - cảnh rừng sơn lâm trong hồi ức đau thương của con hổ “nhớ rừng”. Tiêu biểu phải kể đến bức tranh tứ bình trong đoạn thơ sau:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”.
(Nhớ rừng - Thế Lữ)
Đoạn thơ nằm trong chuỗi hồi ức về những ngày tháng lẫm liệt chốn rừng xanh uy nghi của con hổ. Giữa cảnh núi rừng dữ dội, lộng lẫy nó là vị chúa tể độc tôn. Đoạn thơ dựng lên bốn cảnh rừng tuyệt mĩ: cảnh đêm trăng, cảnh mưa rừng, cảnh bình minh và cảnh hoàng hôn. Mỗi cảnh được thể hiện bằng hai câu thơ, câu thứ nhất tả cảnh rừng, câu thứ hai miêu tả hình ảnh con hổ trên nền thiên nhiên kì vĩ ấy.
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan“.
“Đêm vàng” là hình ảnh ẩn dụ chỉ đêm trăng sáng mọi vật như được nhuộm vàng, ánh trăng như vàng tan chảy trong không gian. Trong đêm trăng, đứng bên bờ suối càng khiến ta cảm nhận hết được sắc màu rực rỡ của thiên nhiên. Mặt nước trong trẻo đón nhận trọn vẹn sắc vàng của trăng càng trở nên lóng lánh kì lạ. Đứng trước khung cảnh ấy, con hổ “say mồi” không chỉ bởi bữa ăn no nê mà còn bởi "uống ánh trăng tan". Đó là một hình ảnh lãng mạn, nó tưởng như mình được chiếm lĩnh trọn vẹn cái đẹp của vũ trụ. ‘
Nếu như hình, ảnh đêm trăng thanh bình bao nhiêu thì cảnh mưa rừng dữ dội bấy nhiêu:
“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới”
Cơn mưa ngàn dữ đội, mịt mờ làm rung chuyển núi rừng, làm kinh hoàng những con thú hèn yếu. Nhưng với hổ thì khác, nó không những không sợ hãi trước uy lực của trời đất mà còn coi đó là một thú vui: “Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới”. Cái im lặng say mê trong từ “lặng ngắm” của hổ chứa đựng những sức mạnh chế ngự của một bản lĩnh vững vàng. Nó đang lấy cái tĩnh của một vị chúa tể để chế ngự cái dữ dội của rừng già đại ngàn. Hình ảnh của hổ hiện lên thật phi thường, dũng mãnh.
Câu thơ vừa căng lên đã nhanh chóng tan ra trong tiếng reo ca của cảnh bình minh:
“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”.
Sau ngày mưa bầu trời bình minh tươi sáng hơn. Con hổ càng khẳng định được vị trí của mình. Ban đêm thì nó thức cùng vũ trụ. Ngày mưa nó “lặng ngắm” giang san. Lúc vạn vật thức dậy thì nó say sưa trong giấc ngủ. Hình ảnh của chúa sơn lâm tự do tự tại muốn gì được nấy, hổ có thể chi phối, chế ngự kẻ khác chứ không ai có thể chế ngự được mình.
Dữ dội nhất, say mê nhất là cảnh rừng thời khắc hoàng hôn:
“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”.
Bức tranh rừng rực rỡ trong gam màu đỏ, đó là màu của máu, màu của ánh sáng mặt trời. Khi chiều tà, ánh mặt trời chuyển sang màu đỏ rực, đó cũng là lúc mặt trời lặn xuống. Nhưng trong con mắt của hổ, thứ ánh sáng bỏng rẫy kia là máu của mặt trời và mặt trời thì đang lịm dần trong cái chết dữ dội. Hổ đang giành lấy quyền lực từ tay vũ trụ để ngự trị.
Đoạn thơ là bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy. Bốn cảnh thiên nhiên, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ tráng lệ với hình ảnh con hổ uy nghi. Nhưng đau xót thay, đây chỉ là cảnh trong dĩ vãng huy hoàng, chỉ hiện ra trong nỗi nhớ. Trước mỗi cảnh thơ đều xuất hiện cụm từ “nào đâu”, “đâu những”, chúng thể hiện niềm nuối tiếc khôn nguôi, nỗi xót xa đau đớn trong lòng hổ. Giấc mơ huy hoàng khép lại trong tiếng than: "Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu".
Đoạn thơ là bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy. Bốn cảnh thiên nhiên, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ tráng lệ với hình ảnh con hổ uy nghi. Nhưng đau xót thay, đây chỉ là cảnh trong dĩ vãng huy hoàng, chỉ hiện ra trong nỗi nhớ. Trước mỗi cảnh thơ đều xuất hiện cụm từ “nào đâu”, “đâu những”, chúng thể hiện niềm nuối tiếc khôn nguôi, nỗi xót xa đau đớn trong lòng hổ. Giấc mơ huy hoàng khép lại trong tiếng than: "Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu".
Tham Khảo
Tâm trạng của con hổ, cũng chính là tâm trạng của Thế Lữ, tâm trạng của một lớp người trong xã hội lúc bấy giờ ( 1931-1935 ), cảm thấy bế tắc trước cuộc sống, chán chường với thực tại, khát khao một cuộc đời tự do, phóng khoáng mặc dù chưa được định hướng rõ ràng.
Thế Lữ sáng tác bài thơ " Nhớ rừng" trong hoàn cảnh như thế đấy. Ông muốn mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú để " thể hiện tâm sự u uất và niềm khát khao tự do mãnh liệt của con người bị giam cầm, nô lệ.
Bạn tham khảo ạ!
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ còn thể hiện khát vọng tự do mãnh liệt, cùng tình yêu nước cháy bỏng của người dân Việt Nam thời bấy giờ.
Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ I.Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Nhớ rừng II.Dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế LữA. Mở bài:
B. Thân bài:
Luận điểm 1: Tâm trạng uất hận của con hổ khi bị giam cầm
Sử dụng một loạt các từ ngữ gợi cảm thể hiện tâm trạng chán nản, uất ức: “ căm hờn”, “nằm dài”, “chịu ngang hàng”, “bị làm trò”, “bị nhục nhằn”. Sự đau đớn, nhục nhã, bất bình của con hổ như bắt đầu trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thực tại tầm thường trước mắt.
Luận điểm 2: Quá khứ vàng son trong nỗi nhớ của con hổ
Luận điểm 3: Nỗi uất hận khi nghĩ về thực tại tầm thường, giả dối
Quay trở về với hiện thực, con hổ với nỗi “uất hận ngàn thâu” đã vạch trần toàn bộ sự giả dối, tầm thường, lố bịch của cuộc sống trước mắt: Ấy là những “cảnh sửa sang tầm thường, giả dối”, cái bắt chước đầy lố bích của thiên nhiên giả tạo, cố cho ra cái “vẻ hoang vu” nơi rừng thiêng sâu thẳm.
Luận điểm 4: Khao khát tự do sục sôi trong lòng con hổ
Giọng điệu bi tráng, gào thét với núi rừng (“hỡi…”), lời nói bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ, sự nuối tiếc về quá khứ và khao khát tự do, dù trong giấc mộng, con hổ cũng muốn được quay về nơi rừng già linh thiêng.
⇒ Mượn lời của con hổ, tác giả đã thay cho tiếng lòng của con dân Việt Nam trong thời kì mất nước, ấy là tiếng than nuối tiếc cho một thời vàng son của dân tộc, là tiếng khao khát tự do cháy bỏng, sục sôi trong từng người dân yêu nước.
Luận điểm 5: Nghệ thuật
C. Kết bài:
Trong thời kì phát triển của phong trào Thơ Mới, Thế Lữ vẫn luôn là cái tên được nhắc đến như là một cây bút xuất sắc nhất xuất hiện từ những ngày đầu tiên. Không ít những tác phẩm của ông góp phần vào sự phát triển không chỉ phong trào Thơ Mới mà còn có tên tuổi, nhưng đặc biệt và nổi bật nhất có lẽ là tác phẩm "Nhớ rừng". "Nhớ rừng" được tác giả Thế Lữ viết vào năm 1934 nhưng phải đến năm 1935 bài thơ mới được xuất bản và in trong tập "Mấy vần thơ".
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ thể hiện một tâm trạng u uất, chán nản, khát vọng cháy bỏng qua lời của một con hổ trong vườn bách thú. Mượn tâm trạng của vị chúa tể sơn lâm để nói lên cái tâm sự chung của toàn thể người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước. Thế Lữ dựng lên một khung cảnh vừa thực vừa ảo mà ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả hình ảnh được nhắc đến trong bài thơ đều xoay quanh cuộc sống của một con hổ. Đây là một con hổ bị giam hãm trong cũi sắt tại vườn bách thú, tự nó cảm nhận được về cuộc sống tầm thường, thiếu tự do ở nơi đây. Cho nên Hổ cảm thấy tiếc nuối, nó nhớ lại quá khứ oanh liệt trước đây của mình khi còn ở núi rừng sâu thẳm hùng vĩ. Bấy nhiêu thôi cũng đủ để ta thấy được con hổ đang đứng giữa hai cảnh tượng, một cảnh tượng ở thực tại với cũi sắt, với sự thiếu tự do, ngao ngán và đối lập là nỗi nhớ quá khứ tự do, chúa tể của sơn lâm, oanh hùng thú vị biết bao.
Chúa tể sơn lâm của núi rừng là hổ, nhắc đến núi rừng thì chẳng thể nào thiếu đi hổ. Nhưng hiện tại thì chúa tể rừng sâu đang phải chịu cảnh sống nhục nhằn trong cũi sắt ở vườn thú. Không gian sống bị thu hẹp đi rất nhiều, không những vậy, nó còn bị biến thành một thứ trò lạ mắt, một vật đồ chơi trong mắt của con người. Với nó cuộc sống bây giờ nhạt nhẽo hơn bao giờ hết, nó đang phải sống ở một nơi không phải cho nó và bị cư xử không đúng với cương vị của một vị chúa tể sơn lâm.
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.
Cuộc sống tù túng khiến Hổ bất bực, chẳng thể nào thoát ra mà cũng chẳng thể nào chấp nhận được cái nơi sống tù túng như vậy, nên đành nhìn thời gian trôi qua vô ích. Bị nhốt trong "cũi sắt" Hổ chỉ còn biết căm hờn, "gậm" nữa nỗi phẫn uất thành "khối" mà mãi chẳng tan mà thậm chí càng gậm càng đắng.
Cái sự đau đớn nhất của chúa tể sơn lâm là nay lại bị tầm thường hóa, vị thế bởi vậy mà bị xuống cấp:
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tự lự
Có thể thấy đây là một nét tâm trạng điển hình không chỉ của Hổ mà của toàn thể nhân dân ta vào những năm 1934, nỗi nhục, căm hờn, cay đắng của Hổ giống như sợi dây xiềng xích nô lệ nhân dân ta trông tăm tối.
Hổ chẳng thể nào quên đi cái thuở vàng son đầy oanh liệt của mình:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Hổ nhớ thuở tung hành trước đây của nó ở khi còn ở núi rừng hùng vĩ, nhớ những khúc nhạc rừng hùng tráng dữ dội. Nghệ thuật ngắt nhịp 4 - 2- 3, 5 - 5, 4 - 2 - 2... giúp cho câu thơ trở nên biến hóa, cân xứng làm dậy lên nỗi nhớ khôn nguôi, cồn cào của Hổ. Một sức mạnh của uy quyền bất khả xâm phạm của Hổ cũng được nhà thơ thể hiện trong những câu thơ kế tiếp đây:
Nhớ cánh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi...
"Gào, thét, hét" là những động từ đặc tả, chính những động từ đó đã tạo nên khúc trường ca dữ dội của núi rừng với suối ngàn thiêng liêng và không kém phần hùng tráng. Ở đây ta thấy được rõ những câu thơ trên là tác phẩm tuyệt bút của Thế Lữ, chính chúng đã làm thêm tính sang trọng cho toàn thể phong trào Thơ Mới và tạo nên cái hay của toàn bài thơ. Hổ nhớ về cánh rừng sơn lâm bạt ngàn mà từng tung hoành, những bước chân của hổ cũng vậy mà dõng dạc và đương hoàng hơn. Ở nơi đó nó có sự uy quyền riêng kể cả khi trời sáng hay đã tối, chiếc "mắt thần" của hổ trong đêm càng làm cho mọi vật sợ hãi mà im hơi, một sự uy quyền vốn có nay đã chẳng còn.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn hào hoa không tên, không tuổi
"Ta" vang lên thật kiêu hãnh, mang trong đó một sự tự hào mà tác giả dùng để miêu tả, khắc họa nên chiều sâu của sự tâm linh cùng với chiều cao của uy quyền. Nơi này chẳng tên cũng chẳng có tuổi nhưng có một sự uy quyền mặc định dành cho hổ, khác hẳn với nơi vườn thú giam hãm này, hổ chỉ là một thứ mua vui rẻ rúng, rẻ rúng ở đây không thể tính được bằng hiện vật là tiền hay thứ gì khác mà nó tính bằng giá trị sự uy nghiêm. Hổ là một vị vua đã suy tàn, bị nhốt lại ở nơi có tên có tuổi nhưng chẳng còn phải là chúa tể của muôn loài, sự kiêu hãnh nay cũng đã mất.
Các câu hỏi tu từ liên tiếp được xuất hiện như một nỗi niềm thể hiện tình cảm và khiêu gợi nỗi nhớ của hổ như: "nào đâu...", "đâu những ngày...", "đâu những bình minh...",... Bốn nỗi nhớ tiêu biểu của chúa sơn lâm đều được tác giả nói đến trong đoạn thơ, nó nhớ triền miên dù ngày hay đêm, sáng hay chiều, mưa hay năng, thức hay ngủ,... Nhà thơ Thế Lữ đã tái hiện lại không gian nghệ thuật qua hình ảnh con hổ triền miên suy nghĩ một cách tinh tế. Dù là chúa sơn lâm nhưng hẳn đều có lúc mơ mộng giữa cảnh suối trăng, cũng có lúc trầm ngầm trong chiêm nghiệm, cũng có lúc nén xuống và cũng có lúc kiên nhẫn đợi chờ để "tung hoành" và "quắc mắt"
Nỗi nhớ nào cũng đều có điểm dừng, chúa sơn lâm trở về với thực tại là đang ở trong cái cũi sắt, hổ đau đớn và cay đắng vô cùng. Cảm giác giống như một quả núi ở núi rừng của riêng hổ bị sụp đổ. Ở đây câu cảm thán và câu hỏi tu từ được tác giả kết hợp lại với nhau, tạo nên sự dữ dội cho lời thơ, lời than của một chúa tể "sa cơ" và của kẻ phi thường mà thất thế.
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Chỉ còn biết nhắn gửi tha thiết về nỗi nhớ "cảnh nước non hùng vĩ":
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Chung quy lại, ta có thể thấy được bài thơ "Nhớ rừng" không chỉ đơn giản thành công về nghệ thuật mà còn thành công cả về nội dung, nội dung của bài thơ chính là tiếng lòng của mọi người dân Việt Nam đang sục sôi trước hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ. Nhà thơ Thế Lữ đã thể hiện rất đúng cái tinh thần và tâm trạng cùng cực chung của toàn thể người dân, đưa thơ văn không rời xa với thực tế nhưng vẫn mang những ẩn ý sâu xa riêng, tạo nên nét độc đáo trong thơ văn riêng của mình.
0,125