K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
21 tháng 11 2023

Tinh thần đoàn kết, quyết tâm chiến đấu

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới

  Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào

  Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh

  Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”

13 tháng 5 2016

Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong văn học Việt Nam Từ cách mạng Tháng Tám 1945 đến 1975. Không phải ngẫu nhiên mà văn học hiện đại Việt Nam có một khối lượng tác phẩm lớn dành riêng cho đề tài người lính và chiến tranh. Bởi lẽ hình ảnh người lính và chiến tranh đã trở thành đề tài lớn, hình tượng trung tâm trong thơ ca Cách mạng Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. 

Quân đội ta - Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được Đảng và Bác Hồ kính yêu dìu dắt, giáo dục mà ngày càng lớn mạnh theo chiều dài của lịch sử dân tộc và đã thực sự trở thành một quân đội anh hùng, tiên phong, trung với nước, hiếu với dân.
Anh bộ đội - người chiến sĩ - anh giải phóng quân..., nhiều tên gọi khác nhau, song tất cả chỉ là một: “Anh bộ đội Cụ Hồ”.  Anh bộ đội Cụ Hồ - Cái tên bình dị thân thương mà rất đỗi tự hào, là sự kết tinh tất cả những tinh hoa của thời đại và được hun đúc trong suốt bốn ngàn năm lịch sử cuả dân tộc. Anh bộ đội cụ Hồ, từ nhân dân mà ra và lớn lên dưới ánh sáng của Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại . Trải qua cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược, quân đội ta cùng với nhân dân ta đã làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, đã ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Đống Đa và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của chủ nghĩa đế quốc. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ không chỉ niềm tự hào của dân tộc mà đã trở thành biểu tượng vô cùng thiêng liêng và cao cả của mỗi tâm hồn Việt Nam.

.........................tự nghĩ thêm nhé

 

12 tháng 5 2018

Hình ảnh chi tiết biểu hiện tình đồng chí, đồng đội làm nên sức mạnh tinh thần của những người lính cách mạng

    + Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

    + Áo anh rác vai/ Quần tôi có vài mảnh vá

    + Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

→ Chi tiết, hình ảnh chân thực vừa có sức gợi cảm về tinh thần đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn của những người lính cách mạng

- Những biểu hiện cụ thể, cảm động của tình đồng chí

    + Sự cảm thông với tâm tư nỗi lòng của nhau

    + Cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính

26 tháng 1 2018

Câu a: Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù:

- Kẻ thù tham lam tàn bạo: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói. Kẻ thì ngang ngược đi lại nghênh ngang ngoài đường, bắt nạt tể phụ.

- Những hình tượng ẩn dụ "lưỡi cú diều", "thân dê chó" để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương. Đồng thời, đặt những hình tượng đó trong thế tương quan "lưỡi cú diều", "xỉ mắng triều đình", "thân dê chó", "bắt nạt tể phụ". Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm.

Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được lòng căm thù giặc, khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.

Câu b: Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua:

+ Hành động: quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến thắt tim, thắt ruột.

+ Thái độ: uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước.

Câu văn giàu tâm huyết của người viết khi nói về tinh thần sẵn sàng hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng".

Câu c:

Sau khi nêu mới ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.

Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vấn đề đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.

Câu d: Đặc sắc nghệ thuật:

- Giọng văn khi bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu, khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát.

- Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

- Sử dụng kiểu câu nguyên nhân - kết quả.

- Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại ...

- Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu.

8 tháng 2 2018

Câu a: Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù:

- Kẻ thù tham lam tàn bạo: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói. Kẻ thì ngang ngược đi lại nghênh ngang ngoài đường, bắt nạt tể phụ.

- Những hình tượng ẩn dụ "lưỡi cú diều", "thân dê chó" để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương. Đồng thời, đặt những hình tượng đó trong thế tương quan "lưỡi cú diều", "xỉ mắng triều đình", "thân dê chó", "bắt nạt tể phụ". Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm.

Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được lòng căm thù giặc, khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.

Câu b: Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua:

+ Hành động: quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến thắt tim, thắt ruột.

+ Thái độ: uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước.

Câu văn giàu tâm huyết của người viết khi nói về tinh thần sẵn sàng hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng".

Câu c:

Sau khi nêu mới ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.

Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vấn đề đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.

Câu d: Đặc sắc nghệ thuật:

- Giọng văn khi bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu, khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát.

- Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

- Sử dụng kiểu câu nguyên nhân - kết quả.

- Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại ...

- Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu.

28 tháng 9 2018

Người mẹ Tà Ôi được miêu tả trong bài thơ

Người mẹ ru con ngủ, và làm đồng thời công việc kháng chiến, của kháng chiến, của cách mạng

- Mẹ ru con trong khi giã gạo, tỉa bắp, khi chuyển lán, đạp rừng

- Tình thương con luôn gắn liền với tình thương bộ đội, dân làng, tình yêu đất nước

→ Tình cảm gia đình hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước, điều làm nên sự vĩ đại của người mẹ Tà Ôi

19 tháng 10 2016

su that lich su trong truyn duoc the hien qua cac chi tiet:thoi vua Hung , vua Hung ga con gai,mua bao ma Thuy Tinh gay ra do chinh la mua bao hang nam o dong bang Bac Bo xua , Son Tinh lam nui de tranh nuoc do la hinh anh nhuoi nhan dan ta dap de trong lut

18 tháng 10 2016
  Hầu như tất cả mọi người Việt Nam đều biết huyền thoại nổi tiếng Sơn Tinh - Thủy Tinh, một truyền thuyết có từ thời Hùng Vương dựng nước. Nhưng không ở đâu, huyền thoại Sơn Tinh lại phong phú, đa dạng và kỳ thú như ở vùng Sông Đà Núi Tản,nơi có ngọn Ba Vì - ngọn chủ sơn của nước Nam ta,nơi Sơn Tinh  được nhân dân tôn vinh là chúa tể của ngọn núi thiêng và gọi tôn kính là Đức Thánh Tản.
         Ở đây, như tất cả những nơi thờ phụng Sơn Tinh trên đất nước, có rất nhiều thần phả ghi lại công đức và sự nghiệp của Ngài, nhưng sinh động nhất vẫn là kho tàng truyền thuyết dân gian truyền miệng từ đời này sang đời khác với tất cả lòng say mê và thành kính.
Đó là những truyện kể về vô vàn sự tích kỳ lạ của Sơn Tinh gắn liền với các địa danh, địa hình, địa vật: những rừng núi, gò đồi, sông suối, bờ bãi, đầm hồ; những đình đền miếu mạo, những thôn xóm và những con người ở vùng xung quanh núi Tản.

Đỉnh núi Tản Viên           Trong ký ức nhân dân vùng chân núi Ba Vì, Sơn Tinh trước hết là hình tượng người Anh hùng trị thủy, người đã chiến thắng oanh liệt Thủy Tinh, cứu dân thoát khỏi nạn lụt. Chuyện Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh chiếm một phần lớn nhất trong các truyền thuyết về Ngài.
Thủy Tinh và thuộc hạ đã gây cho dân vùng này biết bao tai họa tàn bạo và khủng khiếp, đến mức hàng năm nhân dân phải cống nạp cho chúng những người con gái còn trinh như các chuyện kể ở Tây Đằng, Vật Lại, Cam Thượng Đường Lâm.
           Sức mạnh của Thủy Tinh thật là ghê gớm. Hắn phá tung những dẫy gò đồi phía bắc Ba Vì tạo thành suối Di, sới tung ruộng đồng phía đông tạo thành sông Tích. Hắn húc nghiêng cả núi Chàng Rể ở phía tây, đến bây giờ trái núi này vẫn gù lưng, không ngửng lên được nữa. Thậm chí Thủy Tinh còn dâng nước lên tận Ao Vua, Khoang Xanh ở ngang sườn núi Tản.
          Chỉ có sức lao động thần kỳ và trí tuệ phi thường của Sơn Tinh mới chống được Thủy Tinh. Những quả đồi Mòm và dãy gò Choi ở vùng Tòng Lệnh phía bắc núi Ba Vì hay những trái núi vùng Sụ Đá, La Phù và Thạch Khoán, những hòn núi Chẹ, núi Đá Chèm ở phía tây thuộc mạn sông Đà, những dãy đồi Máng Sòng, đồi Giếng ở phía đông núi Ba Vì đều do Sơn Tinh ngày đêm gánh đất đắp nên để chặn dòng nước lũ của Thủy Tinh. Sự tích "đồi Đùm đứt quai, đồi Vai lọt sọt" kể rằng trái đồi Vai cao nhất xã Kim Sơn là tảng đất rơi vì thủng sọt, còn dãy đồi Đùm san sát kéo dài ở xã Xuân Sơn là do đứt quang, đất đổ ra nhiều dọc con đường Ngài gánh đất ngày xưa.
          Sơn tinh còn nghĩ ra trăm phương ngàn kế để chiến thắng Thủy Tinh, từ việc cắm chông chà ở bãi Đá Chông, thả rong rào, chăng lưới ở vùng suối Cái, cho quân gieo hạt thành rừng quanh ngọn U Bò, ném lạt tạo thành lũy tre dày ở ngòi Lặt, lao gỗ đá từ trên núi xuống đánh tan quân Thủy Tinh, chạy thành mười sáu ngả ở đầm Đượng.
        Trên bãi chiến trường xưa của Sơn Tinh, vẫn còn đó những dấu vết tàn binh bại tướng của Thủy Tinh: Rùa,Cá Sấu ở Vân Sơn; Rắn và Giải ở Phụ Khang và Sơn Lộc;Thuồng luồng ở cầu Hang và thủy quái ở ghềnh Bợ trên sông Đà... Có đứa xác biến thành đá, thành đồi, có đứa sống sót tìm vực sâu ẩn nấp, chờ chủ tướng hàng năm lại trở về quấy đảo trong mùa nước lũ.

Đường lên núi Tản          Trong các truyền thuyêt về Sơn Tinh trị thủy, hình tượng Sơn Tinh là người anh hùng có vóc dáng khổng lồ, có thể quẩy núi, ngăn sông. Phải chăng chỉ có hình tượng kỳ vỹ của người khổng lồ mới phản ánh được hiện thực lớn lao và sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong công cuộc chinh phục tự nhiên,dọc theo quá trình tiến từ rừng núi xuống đồng bằng trong lịch sử xa xưa của dân tộc? Chắc chắn rằng để tồn tại được ở vùng đất thâp, cuộc chiến đấu ác liệt nhất của tổ tiên ta phải là cuộc chiến đấu chống lại nạn lụt hoành hành dữ dội theo chu kỳ mùa nước hàng năm.
          Cho đến hôm nay, nạn lụt vẫn còn là mối đe dọa lớn đối với nhân dân ta. Vì vậy, có thể nói truyền thuyết Sơn Tinh thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân muốn chế ngự được thảm họa lũ lụt, đồng thời cũng là lời cảnh báo tự muôn đời không bao giờ được lơ là đối với thủy tai.
  
Sơn Tinh

         Trong các truyền thuyết sưu tầm được ở xứ Đoài, Sơn Tinh còn xuất hiện với tính cách người Anh hùng khai sáng.         Từ quê cũ Lăng Xương, Sơn Tinh vượt sông Đà sang núi Tản khai phá vùng đất mới rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây. Ngài đưa cả mẹ già và công chúa Ngọc Hoa về vùng núi Ba Vì. Ở đây, Sơn Tinh trở thành ông tổ trăm nghề. Vùng ven sông Tích vẫn lưu truyền việc Sơn Tinh dạy dân làm ruộng. trong các truyền thuyết ở Ao Vua, Quy Mông, Sơn Tinh lại dạy dân đào giếng lấy nước ăn và chống hạn. Sơn Tinh chỉ bảo phường săn ở rừng Măng cách chăng lưới và làm bẫy để bắt chim, săn thú; dạy dân Cung Sơn cách làm "dập", một công cụ bắt cá chỗ nước sâu, nơi hội tụ của nhiều nhánh sông. Công chúa Ngọc Hoa, vợ của ngài thì dạy dân trồng dâu chăn tằm, ươm tơ dệt lụa.
Sơn Tinh - Ngọc Hoa

       Không chỉ dạy dân cách làm ăn để dân no ấm, Sơn Tinh còn dạy dân múa hát để vui sống sau những giờ lao động nhọc nhằn. Hội múa Dô ở Liệp Tuyết chính là hình thức kỷ niệm việc Sơn Tinh dạy dân nghệ thuật. Các làng Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thuần Nghệ, Phú Nhi lại truyền tụng những câu chuyện Sơn Tinh dạy dân lễ giáo, trau dồi phong hóa, mong muốn mọi người sống với nhau đầm ấm chan hòa, có nghĩa, có nhân. Nhiều nơi, Sơn Tinh để lại dấu chân trên đường làm thuốc trị bệnh cứu người.
       Trải qua bao thế hệ, trong trí nhớ của nhân dân, Sơn Tinh bao giờ cũng là vị thủ lĩnh có đức độ cao cả, có lòng cứu nhân độ thế, là người anh hùng hộ quốc an dân, tế bần cứu khổ,lấy việc chăm lo cho dân làm mục đích tối thượng. Có phải đó là biểu hiện lý tưởng, là mong ước từ xưa của quần chúng về người lãnh tụ chân chính của nhân dân?
       Ở một số truyền thuyết, Sơn Tinh lại giữ vai trò của người Anh hùng liên minh các bộ tộc, giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.
       Sơn Tinh đã thân hành dẫn dân Cẩm Lĩnh ở chân núi Ba Vì về gặp dân Tòng Bạt ở hạ lưu sông Đà để kết nghĩa làm anh em. Tinh thần hòa hợp và thống nhất của Sơn Tinh đã thu phục được cả những vị thủ lĩnh ở các vùng xa tìm đến kết giao, như truyền thuyết về các ông thánh Miễu, ông Ba Bể cảm phục đức tài thánh Tản.
        Tuy hùng cứ một phương, có thế lực và quyền uy  rất lớn, song Sơn Tinh vẫn thần phục Hùng Vương, xin được làm rể và bề tôi của nhà vua.Việc cầu hôn công chúa Ngọc Hoa phải chăng thể hieenjtuw tưởng kết liên, nhằm mở rộng bờ cõi, hòa nhập với bộ lạc Văn Lang, tăng cường sức mạnh khối đoàn kết nhân dân?
        Trong tình hình các thị tộc, bộ lạc có khuynh hướng cát cứ, phân lập và kình địch lẫn nhau, việc thống nhất lực lượng của Sơn Tinh thật có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử.
      Rải rác trong một số chuyện, Sơn Tinh đã đánh giặc để giữ gìn bờ cõi. Ở những chuyện này, Sơn Tinh lại được ngợi ca như một ngườiAnh hùng bảo vệ đất nước.
       Truyền thuyết vùng Tản Lĩnh kể rằng Sơn Tinh đem quân đuổi giặc, gấp đến nỗi phải cho quân ăn nồi cơm sống dở, về sau, trong những ngày lễ hội, đồ hiến tế bao giơ cũng có ván sôi tráng lớp mật, trên rắc ít hạt gạo sống tượng trưng cho nồi cơm đuổi giặc chưa kịp chín năm xưa. Vùng Thanh Lạng lưu truyên khúc dân ca kể rằng dân làng gói bánh chưng giữa tháng mười khao quân của ngài ăn tết sớm kịp đi đánh giặc.
         Giống như nhiều nơi khác, ở Ba Vì cũng có truyền thuyết về Sơn Tinh đánh giặc Thục. Trong các trận giao chiến dữ dội với quân Thục rất đông và mạnh, Sơn Tinh bao giờ cũng chiến thắng vẻ  vang, cuối cùng chúa Thục phải cầu hòa và rút quân. Ở đây, chưa biết sự thật lịch sử hư thực ra sao, nhưng truyền thuyết về Sơn Tinh đánh giặc thể hiện rất rõ ý chí kiên cường bất khuất và lòng tự hào về khả năng bảo vệ vững chắc lãnh thổ thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc.
          Sơn Tinh còn rất chăm lo rèn quân luyện võ để không ngừng nâng cao khả năng phòng thủ đất nước. mỘt số nơi còn giữ được tục lệ đầy tinh thần thượng võ như lễ hội làng Khê Thượng diễn lại tích Sơn Tinh luyện võ ngày xưa.
          Trong truyền thuyết dân gian, hình tượng Sơn Tinh mang tính nhân dân rất đậm nét . Tuy ở địa vị tôn quý, ngài vẫn ăn ở chan hòa bình dị với dân. Ngài cùng làm việc với mọi người, cũng gánh đất chống lụt, tắm rửa ven sông như một nông dân. Sơn Tinh cũng kéo vó bên sông Tích, ăn gỏi cá ở Bằng Tạ như một ngư dân. Ngài cùng đi săn với phường săn, cùng ngủ rừng với ông già tiều phu ở Cẩm Đảivà cùng ông kéo ống giang với bùi nhùi đốt lửa sưởi trong đêm. Sơn Tinh còn thường xuyên đi thăm hỏi dân các làng quê, cùng vui chơi múa hát trong các ngày lễ hội.

Một số hình ảnh lễ hội Sơn Tinh ở đền Và - thị xã Sơn Tây:
Căn cứ vào truyền thuyết ở vùng Ba Vì thì có lẽ vào thời Hùng Vương, sự phân hóa giai cấp còn chưa rõ nét. Hình ảnh Sơn Tinh không có dáng dấp đặc trưng của giai cấp thống trị như trong các thời kỳ lịch sử sau này.Quan hệ giữa Sơn Tinh với nhân dân là bình đẳngvà dân chủ. Sơn Tinh không có đặc quyền đặc lợi nào cả, cũng không  có sự ngăn cách, phân biệt nào giữa thủ lĩnh với quần chúng nhân dân.
        Có thể nói hình ảnh núi sông, đất nước và nhân dân của cả một vùng sông Đà - núi Tản được sử dụng như những chất liệu cơ bản để khắc họa hình tượng Sơn Tinh: một cô gái cắt cỏ trên đồng, một cụ già kéo cá bên sông Tích, một trái đồi Vai, một giếng Mùi gươm trên đỉnh U Bò, một xóm Rủa, xóm Cua ở chân núi Tản, một ghềnh Bợ ở quãng sông chảy xiết, một con nước "hoa mơ" màu trắng xuất hiện trên sông cho đến mẩu gỗ trôi theo dòng nước lũ... hầu như tất cả thiên nhiên, sản vật, con người ở khắp nơi trn đất Ba Vì đều được gắn liền với cuộc đời và những chiến công của người Anh hùng bất tử.
Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ, nếu như Đức Chử Đồng Tử có công khai mở bờ cõi, Đức Phù Đổng Thiên vương  có công bảo vệ non sông, Giáng Tiên Liễu Hạnh dạy dân về thuần phong mỹ tục, thì với Sơn Tinh, ngài bao trùm tất cả những công đức ấy. Ngài xứng đáng đứng đầu trong các vị thần bất tử.
9 tháng 4 2021

  Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông được thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.

      Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: "Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!". Tác giả gọi giặc là "cú diều, dê chó, hổ đói" không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng xả thân cho đất nước: "Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".

      Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính - tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?", đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.



 

Câu 40: Dụng ý của tác giả Trần Quốc Tuấn thể hiện qua câu : "Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan.” trích trong văn bản “ Hịch tướng sĩ”?A. Thể hiện sự thông cảm với các tướng sĩ.B. Kêu gọi tinh thần đấu tranh của các tướng sĩ.C. Miêu tả hoàn cảnh sinh sống của mình cũng như của các tướng sĩ. D. Khẳng định mình và các tướng sĩ là những người cùng cảnh...
Đọc tiếp

Câu 40: Dụng ý của tác giả Trần Quốc Tuấn thể hiện qua câu : "Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan.” trích trong văn bản “ Hịch tướng sĩ”?

A. Thể hiện sự thông cảm với các tướng sĩ.

B. Kêu gọi tinh thần đấu tranh của các tướng sĩ.

C. Miêu tả hoàn cảnh sinh sống của mình cũng như của các tướng sĩ.

 

D. Khẳng định mình và các tướng sĩ là những người cùng cảnh ngộ.

Câu 53: Những lợi thế mà Lí Công Uẩn đưa ra của thành Đại La là gì?

A. Ở vào nơi trung tâm của trời đất, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông, dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng.

C. Ở vào nơi trung tâm của trời đất, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi.

B. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông, dựa núi.

D. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà lại thoáng.

3
14 tháng 3 2022

40, D

41, A

14 tháng 3 2022

40D

53A

4 tháng 8 2017

Sự thật lịch sử trong truyện Sơn Tinh Thủy Tinh thể hiện rõ nhất qua những chi tiết, hình ảnh : Thời vua Hùng , Vua Hùng gả con gái , mưa bão mà Thủy Tinh gây ra chính là mùa bão hàng năm ở đồng bằng Bắc Bộ xưa , Sơn Tinh làm núi để tránh nước đó là hình ảnh nhân dân ta đắp đê chống lũ lụt hàng năm

Chúc bạn học tốt haha

20 tháng 10 2016

Hằng năm đều xảy ra lũ lụt ^^