Chỉ ra các yếu tố khiến cảnh cho chữ trở thành một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Hãy phân tích ý nghĩa của cảnh tượng kì lạ đó.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Nguyễn Tuân dụng công miêu tả “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” làm nổi bật vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, bất tử hình tượng Huấn Cao
+ Việc cho chữ- hoạt động nghệ thuật thanh cao diễn ra trong căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, hôi hám
+ Cái đẹp tỏa sáng, người nghệ sĩ tô từng nét chữ không phải người được tự do mà là kẻ tử tù
+ Hình tượng người tử tù uy nghi, cao đẹp >< quản ngục, thơ lại là kẻ tự do
+ Trật tự trong nhà tù bị đảo ngược: người tù ban phát cái đẹp, răn dạy quản ngục
⇒ Sự chiến thắng của thiện lương, của ánh sáng nghệ thuật chân chính. Tô đậm nhân cách thanh cao, ngang tàng của Huấn Cao
- Bởi vì:
+ Không gian khác thường: cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù.
+ Thời gian khác thường: giữa đêm khuya.
+ Người xin chữ và người cho chữ khác thường:
Người xin chữ là quản ngục – Người cho chữ là tử tù
Không còn ranh giới giữa từ tù và quản ngục. Huấn Cao cho chữ và khuyên quản ngục những lời chân thành dành cho tri âm.
-Nhận xét:
+ Cảnh cho chữ được xây dựng bằng thủ pháp tương phản, ngôn ngữ trang trọng, cổ kính và giàu giá trị tạo hình.
+ Qua cảnh tượng này, chủ đề tác phẩm được thể hiện sâu sắc: đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, của cái thiện đối với cái ác.
Tham khảo!
Theo em cảm nhận thì ở đoạn cuối của truyện người tử tù,ở đoạn miêu tả "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có" không khỏi làm em ngỡ ngàng và cảm thấy lạ lùng,bởi vì chưa từng có trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám như vậy.Rồi còn cả cảnh tượng lạ lùng khi mà tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy và nhỏ bé đến không ngờ.
Và điiều đó làm cho em thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, cái đáng sợ đó vốn dĩ chẳng phải làcái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp đẽ , cái dũng cảm , cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Trong cảnh cho chữ đặc sắc này, cái nhà ngục tăm tối bỗng nhiên đã trở nên sụp đổ, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thơ lại nữa.Mà chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ khác.Và tất cả chúng đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của sự thiệ lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Dù cho sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng lúc ấy,những nét chữ của ông vẫn vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão cả cuộc đời của ông dù ông chết đi cũng vẫn sẽ còn đó. Và đặc biệt nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại đấy. Và từ đó em có thể thấy được quan niệm của Nguyền Tuân là cái đẹp gắn liền với cái lương thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có chính nghĩa ,phải có lòng thiện lương. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng và cái khí phách Hiện thâncho một cái đẹpp vĩnh hằng ,sáng rực cả trong đêm tôsi tăm trong cả đêm cho chữ trong nhà tù
Dàn ý tham khảo:
* Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Tuân: là một nhà văn vô cùng tài hoa, uyên bác.
- Giới thiệu chung về tác phẩm “Chữ người tử tù”.
* Thân bài:
Ý 1: Tình huống truyện đặc biệt
- Huấn Cao - một tử tù và viên quản ngục tình cờ gặp nhau và trở thành tri âm tri kỉ trong một hoàn cảnh đặc biệt: nhà lao nơi quản ngục làm việc.
- Tình huống độc đáo này đã làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng Huấn Cao, làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của quản ngục đồng thời thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm: ca ngợi cái đẹp, cái thiện có thể chiến thắng cái xấu cái ác ngay ở nơi bóng tối bao trùm, nơi cái ác ngự trị.
Ý 2: Vẻ đẹp các nhân vật
* Nhân vật Huấn Cao
- Huấn Cao được lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát - một con người lỗi lạc thời trung đại.
- Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa:
+ Là người có “tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp”. Hơn thế mỗi con chữ của Huấn Cao còn chứa đựng khát vọng, hoài bão tung hoành cả đời người.
+ “Có được chữ ông Huấn là có được báu vật ở đời”.
⇒ Ca ngợi nét tài hoa của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình: kính trọng những con người tài hoa tài tử, trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ truyền của dân tộc
- Là anh hùng có khí phách hiên ngang
+ Thể hiện rõ nét qua các hành động: dỗ gông, thảm nhiên nhận rượu thịt
+ Trong mọi hoàn cảnh khí phách hiên ngang ấy vẫn không thay đổi
- Là người có thiên lương trong sáng, nhân cách cao cả
+ Quan niệm cho chữ: trừ chỗ tri kỉ ngoài ra không vì vàng bạc châu báu mà cho chữ
+ Đối với quản ngục:
Khi chưa hiểu tấm lòng quản ngục Huấn Cao cho hắn là kẻ tiểu nhân tỏ ra khinh biệt " Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn từ có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây nữa".
Khi nhận ra tấm lòng quản ngục Huấn Cao không những cho chữ mà còn coi quản ngục là tri âm tri kỉ.
⇒ Huấn Cao là hình tượng của vẻ đẹp uy nghi giữa tài và tâm của người nghệ sĩ, của bậc anh hùng tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
* Nhân vật quản ngục
- Một tấm lòng biệt nhỡn liên tài.
- Có sở thích cao quý: chơi chữ.
Ý 3: Cảnh cho chữ - “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
- Không gian: ngục tối ẩm ướt, bẩn thỉu.
- Thời gian: đêm khuya.
- Dấu hiệu:
+ Người cho chữ là tử tù, người xin chữ là quản ngục
+ Người cho chữ mất tự do cổ đeo gông chân vướng xiềng nhưng vẫn hiên ngang, chủ động trong khi quản ngục - người xin chữ khúm núm, bị động.
+ Tử tù lại là người khuyên quản ngục.
- Sự hoán đổi ngôi vị:
+ Ý nghĩa lời khuyên của Huấn Cao: cái đẹp có thể sản sinh ở nơi đất chết, nơi tội ác ngự trị nhưng không thể sống chung với cái xấu cái ác. Người ta chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương.
+ Tác dụng: cảm hóa con người.
⇒ Điều lạ lùng ở đây không chỉ là thú chơi chữ tao nhã, thanh cao được thể hiện ở nơi tối tăm bẩn thỉu, người trổ tài là kẻ tử tù mà đặc biệt hơn là trong chốn lao tù tối tăm ấy cảnh cho chữ là sự thăng hoa của cái tài, cái đẹp, người tử tù sắp chết lại cảm hóa được viên quản ngục. Chính những điều này đã tạo nên hào quang rực rỡ, bất tử cho hình tượng Huấn Cao.
* Kết bài:
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
+ Nội dung: Khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao, người nghệ sĩ tài hoa tài tử có thiên lương trong sáng, tiêu biểu cho kiểu người chỉ còn vang bóng trong thời kì trước cách mạng. Qua đó, ta thấy được quan niệm thẩm mĩ của nhà văn Nguyễn Tuân.
+ Đặc sắc nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo với màu sắc, không khí cổ xưa; thủ pháp đối lập được đẩy lên đến đỉnh cao; sử dụng ngôn ngữ góc cạnh, giàu tính tạo hình.
- Cảm nhận chung của em về giá trị tác phẩm.
Bài viết tham khảo:
Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập “Vang bóng một thời” chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.
“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên “Dòng chữ cuối cùng”, sau in thành sách đổi thành “Chữ người tử tù”. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội.
Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.
Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ.
Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.
Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.
Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc.
Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…,
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.
Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng chân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sặc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
- Ngọn đèn: Trong những đêm đơn lẻ, buồn khổ người thiếu phụ chỉ có ngọn đèn vô tri vô giác chia sẻ ưu tư
- Chim thước: không có tin tức của người nơi biên viễn
- Trong rèm, ngoài rèm: không gian cô quạnh dàn trải mênh mông
- Thời gian: trôi người thiếu phụ rơi vào tuyệt vọng và nỗi buồn mênh mang, cô đơn của con người.
- Tiếng gà: là âm thanh xuất hiện trong cái cô tịch của đêm
- Bóng cây hòe: gợi ra cảm giác hoang vắng, cô quạnh, bóng người sầu tê tái vì mong nhớ, khát khao
→ Nỗi cô đơn, buồn tủi chiếm lấy tâm trí người chinh phụ. Cảnh vật xung quanh dường như tô đậm hơn nỗi sầu kim cổ ấy.
Tham khảo:
Nếu Xuân Diệu cả đời đi tìm một tình yêu đúng nghĩa thì Nguyễn Tuân lại dành cả đời mình để đi tìm cái đẹp. Ông tìm cái đẹp trong chính nét văn hoá cổ truyền của dân tộc: đó là chữ viết thư pháp. Tập truyện "Vang bóng một thời" đã thể hiện những hoài niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp ấy. Đặc biệt, trong tác phẩm "Chữ người tử tù" cái giá trị nghệ thuật cao quý truyền thống lại càng được tôn vinh và trân trọng. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Bật lên trong truyện là một cảnh tượng độc đáo "xưa nay chưa từng có", thể hiện những giá trị lớn lao của tác phẩm: cảnh cho chữ.
Huấn Cao là một nguời tài hoa có tài viết chữ đẹp nhưng dám nổi dậy chống lại triều đình nên bị xem là một tên nghịch thần, bị bắt và bị kết án tử. Viên quản ngục vốn là một người say mê chữ đẹp. Hai con người gặp nhau trong một hoàn cảnh hết sức ngang trái: một bên là tử tù và một bên là quản ngục. Vốn hâm mộ tài viết chữ của Huấn Cao, Viên quản ngục đã tâm sự với thầy thơ lại và cùng thầy đến nhà giam bày tỏ nỗi lòng và xin Huấn Cao cho chữ. Huấn Cao vô cùng cảm mến tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" và thái độ chân thành của Viên quản ngục nên đã đồng ý cho chữ.
Hoàn cảnh cho chữ được tác giả miêu tả một cách thật đặc biệt: "Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Đó là một đêm khuya vắng lặng chỉ có "tiếng mõ vọng canh". Quang cảnh nhà tù, buồng giam dưới ngòi bút của nhà văn thật ảm đạm và nhơ bẩn. Không dừng lại ở đó, không gian ấy còn bị thu hẹp dần trở nên thật bé nhỏ, tù túng, chật hẹp. "Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên lân hồ. Khói bốc toả cay mắt". Nhà tù lạnh lẽo, ẩm thấp bỗng dưng được sưởi ấm bằng "ánh sáng đỏ rực" của bó đuốc tẩm dầu. Nhà văn đã dùng thủ pháp tương phản để tạo ấn tượng về hoàn cảnh cho chữ. Nguyễn Tuân thật không hổ danh là một người nghệ sĩ tài hoa có con mắt tinh đời và tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy.
Cảnh cho chữ diễn ra thật đẹp, chính lúc này, tài hoa mới thực sự toả sáng. "Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván". Hình ảnh Huấn Cao hiện lên sao mà sắc sảo, tinh tế đến vậy? Người nghệ sĩ tài hoa không phải ở trong tư thế tự do mà phải mang vác nào gông, nào xiềng và đội cả án tử trên đầu. Một con người ngang tàng tung hoành trong xã hội dù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng" vẫn say mê sáng tạo cái đẹp, bất kể ngày mai, khi trời sáng, cái chết đã cận kề. Huấn Cao dường như không phải đang viết mà là đang vẽ chữ, ông "dậm tô nét chữ" một cách ung dung, đĩnh đạc, không màng tất cả. Thông thường, sáng tạo nghệ thuật là một việc thanh cao cần được diễn ra ở những nơi trang trọng, thiêng liêng; nhưng không, lúc này đây, Huấn Cao lại đang viết chữ, cho chữ trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, nhơ nhớp. Thủ pháp tương phản lại một lần nữa được Nguyễn Tuân sử dụng một cách tài tình. Một bên là tử tù uy nghi, lồng lộng, một bên là quản ngục "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực...". Những con người mâu thuẫn về giai cấp, lý tưởng lại bỗng dưng trở thành tri âm tri kỉ về tinh thần. Họ chụm đầu lại, cùng nhau say sưa sáng tạo cái đẹp và thưởng thức cái đẹp. Dường như giữa chốn ngục tù đầy rẫy những bạo tàn, bất công, phép tắc, kỉ cương đã bị đảo lộn, thế chủ động không còn nằm trong tay những kẻ uy quyền thống trị mà thuộc về người tử tù. Chính lúc này đây, cái đẹp đã thực sự toả ánh hào quang rực rỡ làm bừng sáng cả không gian. Thiên lương đang lấn dần, đẩy lùi bóng tối, vươn lên làm kim chỉ nam soi sáng cho những con người lầm đường, lạc bước. Huấn Cao từ tốn, chân thành: "Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người....Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái ghế này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Huấn Cao đã không còn giữ khoảng cách với Viên quản ngục, đã thực sự xem Viên quản ngục là tri âm tri kỉ nên mới có những lời khuyên dốc từ tận đáy lòng đến vậy. Không chỉ quan tâm, trân trọng thú chơi chữ thanh cao của Viên quản ngục mà Huấn Cao còn chú ý đến cả lọ mực mà Viên quản ngục đem đến. "Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?". Câu nói nhẹ nhàng mà đầy tinh tế làm cái đẹp không chỉ có sắc mà còn có hương thơm ngát. Trong cái buồng giam chật hẹp, ẩm ướt, nhơ nhớp dường như chỉ còn lại mùi mực thơm tho - mùi của thiên lương trong sáng. Vẻ đẹp nhân cách của nhân vật Huấn Cao nói chung và lúc cho chữ nói riêng bỗng trở nên chói sáng, rực rỡ nhất trong cái đêm đen tối tăm, không lối thoát của xã hội.
Cảnh cho chữ đã khẳng định chiến thắng thuyết phục hoàn toàn của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp với cái xấu, cái cao thượng với cái tầm thường, của cái cao quý, thanh khiết với sự nhơ nhớp, bẩn thỉu, của cái thiện với cái ác. Đây thực sự là một bức tranh nghệ thuật sắc sảo nhằm tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhất là nhân cách cao cả của con người. Đúng như Dostoevsky từng phát biểu: "Cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người". Thông qua cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân còn thể hiện được tinh thần dân tộc, qua đó ý nhị bộc lộ một nỗi niềm yêu nước thầm kín. Tác giả như đau đớn cất lên khúc vãn ca cho một nét đẹp văn hoá truyền thống từng "Vang bóng một thời" bỗng lụi tàn bởi thời cuộc, bởi sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của một đại bộ phận người trong xã hội.
Cái "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt giúp Nguyễn Tuân vung tay múa chữ rất điệu nghệ. Ông thoả sức thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình một cách sắc sảo, tuyệt đỉnh. Những lớp ngôn từ dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thật đa dạng, phong phú tạo nên nét cổ kính, trang trọng cần và đủ, vừa sống động, vừa tinh tế. Mỗi con chữ đảm nhiệm một sức nặng riêng, có nhịp điệu riêng và giàu tính tạo hình, gợi cảm. Ngoài ra, nhà văn còn sử dụng rất thành công thủ pháp tương phản, đối lập. Bút pháp tả thực của tác giả cũng đạt đến một đỉnh cao nhất định. Cảnh cho chữ được tác giả miêu tả vừa ảm đạm, vừa hùng hồn khiến cả ba con người xuất hiện ở đó: Huấn Cao, Viên quản ngục, thầy thơ lại bỗng trở thành những hình tượng độc đáo, nổi bật.
Tóm lại, cảnh cho chữ đã làm bật nồi được chủ đề của toàn bộ tác phẩm, khẳng định chân lý "cái đẹp cứu rỗi nhân loại" (Dostoevsky) và tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của tác giả. Bên cạnh đó, "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" còn cho thấy tài năng văn chương kiệt xuất của Nguyễn Tuân - một nhà văn có phong cách rất độc đáo, tài hoa và uyên bác. Đoạn văn thể hiện được vốn hiểu biết phong phú của ông về nét đẹp thư pháp - một nét đẹp văn hoá truyền thống dân tộc cần đựợc gìn giữ và duy trì.
Chúc bạn học tốt!
- Về không gian: người xưa thường cho chữ ở thư phòng, nơi sạch sẽ, trang nghiêm. Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nơi ngục tù ẩm mốc, bẩn thỉu, đầy những phân chuột phân gián.
- Về thời gian: cảnh cho chữ này diễn ra vào thời gian giữa đêm khuya thanh vắng. Đặc biệt đó là đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao, con người tài hoa, nghĩa hiệp phải thi hành án xử.
- Người cho chữ và người xin chữ cũng vô cùng đặc biệt: Người cho chữ mặc dù bị cùm gông nhưng vẫn ung dung, tự tại, oai phong phóng bút với những nét bút đẹp tuyệt trần. Trong khi đó, viên quản ngục và thầy thơ lại cúi đầu đón nhận như một đặc ân từ tử tù.
- Trật tự, kỉ cương trong nhà tù bị đảo lộn hoàn toàn: Tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy quản ngục.