Theo em, từ một chương trình có các hàm do người lập trình tự định nghĩa, có thể bỏ hết các hàm này để chuyển thành chương trình kiểu nguyên khối hay không? Việc này để hay khó?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1.Chương trình bảng tính là phần mềm đuọc thiết kế để giúp ghi lại và trình bày thông tin dưới dạng bảng,thực hiẹn các tính cũng như xây dựng các biểu đồ biểu diển 1 cách trực quan các số liệu có trong bảng!
10.Các thành phần chính:ô,hàng,cột,khối,...
19.Để sao chép nội dung ô tính,ta thực hiện theo 4 bước:
1:Chọn ô cần sao chép đi
2:nhấn nút copy trên thanh công cụ
3:Chọn ô cần sao chép tới
4:nhấn nút paste trên thanh công cụ
SORRY,MÌNH CHỈ BIẾT BAO NHIÊU ĐÓ,XIN LỖI BẠN NHA!!!
Tham khảo:
from LinkedList import LinkedList
def nhapDL():
ds_bai_hat = LinkedList()
n = int(input("Nhập số lượng bài hát: "))
for i in range(n):
ten_bai = input(f"Nhập tên bài hát thứ {i+1}: ")
ds_bai_hat.append(ten_bai)
return ds_bai_hat
def timBai(ds_bai_hat, ten_bai):
result = ds_bai_hat.find(ten_bai)
if result is not None:
print(f"Bài hát '{ten_bai}' được tìm thấy ở vị trí đầu tiên: {ds_bai_hat.__str__().index(ten_bai) // 4 + 1}")
else:
print(f"Không tìm thấy bài hát '{ten_bai}'")
def inTT(ds_bai_hat):
print("Danh sách bài hát trên đĩa CD hay playlist:")
print(ds_bai_hat)
from quan_ly_cd import nhapDL, timBai, inTT
def main():
ds_bai_hat = nhapDL()
while True:
print("====================================")
print("1. Tìm bài hát")
print("2. In danh sách bài hát")
print("3. Thoát")
choice = int(input("Nhập lựa chọn của bạn: "))
if choice == 1:
ten_bai = input("Nhập tên bài hát cần tìm: ")
timBai(ds_bai_hat, ten_bai)
a. Trong những câu được dẫn, câu (3) hay hơn cả vì thể hiện được tình cảm, cảm xúc (lòng mong muốn bạn tiến bộ) của người viết được bộc lộ rõ ràng, do đó hiệu quả thuyết phục sẽ cao hơn.
b. Cách sắp xếp các luận cứ theo trình tự trong sách đã thể hiện tính lô-gíc, chặt chẽ :
Ba câu đầu là hệ thống lập luận theo hướng thuận:
- Câu (1) nêu một vấn đề về tương lai, trong đó trình độ khoa học – kỹ thuật và văn hoá - nghệ thuật ngày một nâng cao.
- Câu (2) xác định vai trò của tri thức trong xã hội đó.
- Câu (3) được suy ra từ câu (2) : muốn có tri thức thì phải chăm chỉ học tập.
- Câu (4) là một kết luận có tính tất yếu và giàu sức thuyết phục.
c. Cách kết đoạn như của bạn ("Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không ?") có những đặc điểm :
- Cách viết đó tạo ra một giọng điệu tinh nghịch (thậm chí hơi suồng sã), điều đó có thể làm giảm tính thuyết phục của đoạn văn.
- Để kết luận được như vậy, cả bài văn cũng phải có một giọng điệu tương tự thì mới phù hợp. Điều này thật khó tạo được hiệu quả như ý muốn.
Nói chung, để kết thúc đoạn văn này có thể sử dụng nhiều cách khác nhau, nhiều giọng điệu khác nhau nhưng điều chủ yếu nhất là những giọng điệu đó phải xuất phát từ (và cũng phải thể hiện được) một tình cảm bè bạn chân thành, từ lòng mong muốn thực sự cho sự tiến bộ của bạn cũng như của cả tập thể lớp.
d. Nếu kết luận theo hướng trên (câu chủ đề ở cuối đoạn) thì đây là một đoạn văn được viết theo lối quy nạp.
Nếu kết luận theo hướng trên (câu chủ đề ở cuối đoạn) thì đây là một đoạn văn được viết theo lối quy nạp.
Ví dụ :
"Người học sinh hôm nay càng ham chơi, không chăm học thì ngày mai càng khó có thể làm được việc gì có ý nghĩa, và do đó càng khó có được niềm vui trong cuộc sống. Điều đó được giải thích như sau : cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật, xã hội càng ngày càng phát triển, càng đòi hỏi con người phải được trang bị hệ thống tri thức tiên tiến...".
Câu 3:
Hiện nay có rất nhiều chương trình bảng tính khác nhau như: Lotus, Quattro, Excel…Nhưng chúng đều có chung một số tính năng chung như sau:
– Màn hình làm việc đều có dạng bảng (bao gồm cột, hàng và ô);
– Có khả năng lưu trữ và xử lí nhiều loại dữ liệu như ờ dạng số, văn bàn, ngày tháng, tiền tệ…
– Khả năng tính toán và sử dụng hàm có sẵn;
– Sắp xếp và lọc dữ liệu;
– Tạo biểu đồ dựa vào dữ liệu có sẵn trong bảng.
Chúng ta có thể bỏ hết các hàm trong một chương trình và thay thế bằng một khối lệnh lớn hơn để tạo thành một chương trình kiểu nguyên khối. Tuy nhiên, việc này không phải lúc nào cũng là tối ưu và có thể dẫn đến một số vấn đề như sau:
- Khó quản lý và bảo trì: Khi chương trình trở nên lớn hơn thì việc duy trì và sửa lỗi sẽ trở nên phức tạp và khó khăn hơn khi tất cả các lệnh được đặt trong một khối lệnh duy nhất.
- Không tái sử dụng được code: Nếu các phần code được sử dụng nhiều lần trong chương trình, việc đặt chúng vào các hàm riêng biệt sẽ giúp tiết kiệm thời gian và tối ưu hóa mã nguồn.
- Không tận dụng được tính mô đun của chương trình: Một chương trình mô đun có thể được chia thành các phần riêng biệt và phụ thuộc lẫn nhau. Việc bỏ hết các hàm và chuyển thành chương trình kiểu nguyên khối sẽ khiến chương trình mất đi tính mô đun và dễ dàng gây ra các vấn đề về phụ thuộc giữa các phần của chương trình.