Phân tích khổ 2 bài thơ đợi mưa trên đảo sinh tồn
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Khổ 3 bài thơ "Mưa":
Mưa rơi, mưa rơi
Mưa là bạn tôi
Mưa là nốt nhạc
Tôi hát thành lời…
Biện pháp so sánh "Mưa là bạn tôi" và "Mưa là nốt nhạc"
Tác dụng:
- Tăng tính biểu hình biểu đạt gây ấn tượng sâu sắc với người đọc.
- Cho thấy sự gần gũi giữa mưa và con người - nhân vật "tôi"
- Niềm vui của nhân vật tôi khi bắt gặp cơn mưa.
Biện pháp nhân hóa qua cách gòi "mẹ" thiên nhiên.
Tác dụng:
- Tăng tính biểu hình biểu đạt gây ấn tượng sâu sắc với người đọc.
- Thể hiện tình yêu và sự trân trọng đối với những giá trị thiên nhiên đã mang lại cho con người.
- Khuyên bạn đọc hãy biết trân trọng và bảo vệ thiên nhiên.
Tác giả Viễn Phương đã đưa chúng ta đến với lăng Bác một cách chân thật nhất, để ta ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên quanh lăng Bác qua khổ thơ đầu tiên:
' Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng 'Câu thơ mở đầu như lời chào chân thành mà tác giả muốn gửi đến Bác rất thành kính và trang nghiêm nhưng đâu đó vẫn có sự thân thuộc, yêu thương qua từ ngữ xưng hô 'con' và 'Bác' lời xưng hô thân mặt như tình cảm của một đứa con ở miền Nam xa xôi sau bao năm xa cách gửi đến người cha thương của mình. Sự ra đi của Bác là nỗi mất mát to lớn của dân tộc Việt Nam, Người đã hi sinh cả cuộc đời mình vì độc lập tự do dân tộc, đất nước. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh từ ''viếng'' thành từ ''thăm'' để giảm đi nỗi đau xót vô vàn dâng trào trong lòng, Bác đã đi xa mãi mãi nhưng trong tim mỗi người dân Việt Nam luôn có Bác. Khung cảnh ngoài lăng còn được tác giả miêu tả đặc sắc qua những hàng tre xanh xanh. Hình ảnh cây tre đã có từ bao đời nay luôn xuất hiện trong nền thơ ca Việt Nam:'Tre xanh xanh tự bao giờChuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh Thân gầy guộc, lá mong manhMà sao nên lũy nên thành tre ơi'Nhà thơ chợt nhận cảm thấy rằng hình cảnh cây tre kia như ý chí của con người Việt Nam, bất khuất, kiên cường trong mọi khó khăn, gian khổ. Dù có bao nhiu gian khổ thì họ vẫn cùng nhau đoàn kết lại để thành như nhưng hàng tre cao vút, thẳng hàng, hiên ngang để vượt qua khó khăn cung nhau. Từ láy '' xanh xanh'' sử dụng ở đây như chỉ con người, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn 'xanh' màu xanh của sự bất diệt. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông ta sẽ luôn bất khuất, dũng cảm, kiên cường để bảo vệ dân tộc. Khổ nhất bao trọn là cảm xúc đầu tiên khi tác giả đến thăm lăng Bác lần đầu, trongkhổ thơ có nỗi sự tiếc thương vô hạn khi Bác đi xa nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự hào dân tộc. Qua khổ thơ tiếp theo, chúng ta theo chân Viễn Phương để tiến dần vào trong lăng Bác:'' Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăngThấy một mặt trời trong lăng rất đỏNgày ngày dòng người đi trong thương nhớKết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân''Hình ảnh mặt trời xuất hiện rất nhiều trong nền thơ ca Việt Nam ( nêu thơ ). Hình ảnh mặt trời của tự nhiên luôn soi sáng cho vạn vật. Tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ để nói đên Bác, Người như mặt trời vậy hi sinh cuộc đời mình vì cách mạng Việt Nam, soi sáng đường đii đến độc lập tự do cho dân tộc ta. Sự cống hiến to lớn của Bác là tấm gương sáng cho lớp trẻ Việt Nam noi theo. Điệp từ 'ngày ngày' nhấn mạnh luôn có người nhớ đến Bác - vị cha già, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, sự liên tục của thời gian lặp đi lặp lại của thiên nhiên như lí tưởng, í chí của Người sẽ luôn sáng chói như mặt trời kia vậy. Sự miên man, trải dài vô tận của dòng người vào viếng lăng Bác mang những phút giây trang nghiêm và tĩnh lặng trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn trước sự ra đi của Bác. Dòng người ấy luôn đi mái trong niềm thương nhớ Bác, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dâng dài vô tận để dâng lên Bác Hồ kính yêu. 'Bảy mươi chín mùa xuân' là số tuổi của Bác. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Qua khổ thơ tác giả muốn nhấn mạnh sự hi sinh và cống hiến có ý nghĩa to lớn với dân tộc Việt Nam, sự hi sinh ấy đã giúp chúng ta có nền độc lập, hòa bình hôm nay.
câu c bạn tham khảo:
HÌnh ảnh ông đồ hiện lên trong khổ thơ gắn với những buồn bã khôn nguôi.Vẫn trong bức tranh ngày tết, trong không khí xuân rộn ràng nhưng ông đồ xưa đã chẳng còn vui thú thuở nào.Với từ “vẫn” nhà thơ muốn khẳng định sự tồn tại c̠ủa̠ ông đồ.Nhưng sẽ chẳng còn ở đó Ɩà sự náo nức, sự vui tươi.Nỗi buồn dường như bao trùm toàn bộ khổ thơ.Lời thơ c̠ủa̠ Vũ ĐÌnh LIên “qua đường không ai hay” như một sự chua xót cho tình cảnh ông đồ, cho nét đẹp văn hóa c̠ủa̠ một thời.Phải chăng cuộc sống hiện đại nên những kỉ vật xưa cũ kĩ ấy đang không còn chút giá trị? Trên trang giấy ấy chỉ có lá ѵàng.Sắc ѵàng ảm đạm Ɩàm ta thấy thê lương ѵà buồn thương muôn phần.Tủi nhục, đau xót Ɩà nỗi niềm c̠ủa̠ ông đồ, Ɩà nỗi đau trong thi nhân.Mưa bụi, lá ѵàng..tất cả Ɩàm bức tranh thực tại ảm đạm, sầu tủi.Nỗi niềm tiếc thương với ông đồ, với nét đẹp cho chữ ấy vẫn cứ đau đáu trong vần thơ VŨ Đình Liên ѵà trong mỗi chúng ta.
Hình ảnh người lính luôn là đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam, bởi họ là một tượng đài bất tử với những nét đẹp trường tồn. Với cảm hứng đó Trần Đăng Khoa đã dành cả một chùm thơ viết về họ mà tiêu biểu là tác phẩm Đợi mưa trên đảo sinh tồn.
Hình ảnh người lính đã trở nên quen thuộc với thơ ca cách mạng Việt Nam. Họ đi vào trong văn chương một cách giản dị đời thường nhưng vô cùng lạc quan, dũng cảm. Trong thời chiến họ là những người con đã làm nên lịch sử, trở thành nhân vật chính bởi tinh thần quả cảm, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp chung. Ở thời bình họ vẫn kiên cường bảo vệ biên cương Tổ Quốc, giữ vững thành quả chiến đấu hi sinh của cha ông. Và hình ảnh những người lính ngày đêm canh giữ biển đảo quê hương xuất hiện nhiều trong Văn học sau năm 1975 đặc biệt là Đợi mưa trên đảo sinh tồn.
Bài thơ mở đầu bằng ánh mắt của những chàng lính trẻ khi nhìn về phía xa xăm, nơi có những bóng mây mưa rơi
Chớp xanh lấp loáng trời
Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn
Bóng đen sẫm như gốc cây khô
Đáy mắt đăm đăm nhìn về nơi ấy
Nơi cơn mưa thăm thẳm xa khơi
Ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời
Mở đầu bài thơ tác giả đã nhắc tên hòn đảo Sinh Tồn giống như sự nhấn mạnh tính chất khắc nghiệt của cuộc sống nơi đây. Trên hòn đảo không hề có nước ngọt con người và mọi vật đều phải kiên cường gồng mình để dành đến sự sống. Chính vì không có nước ngọt như những hòn đảo khác nên trời mưa đối với họ là cái gì đó xa xỉ và quý giá. Chính vì vậy mà người lính mong ngóng mưa họ nhìn về phía xa xăm, nơi đất liền nơi đang có những dấu hiệu của những trận mưa rào đổ xuống. Từ hình ảnh bóng đen sẫm của cây khiến ánh chớp xanh lấp loáng.
Đối với chúng ta mưa là hiện tượng hết sức bình thường, nhưng đối với những người lính đảo đó là một món quà vô giá mà thiên nhiên mang đến cho con người, vạn vật nơi đây. Họ nhìn về phía đất điền với những cơn mưa với ánh mắt thèm thuồng đến tội nghiệp. Họ ngồi lặng yên nhìn cơn mưa nơi đất liền một cách trang nghiêm như đợi chờ điều kỳ diệu. Những mong mỏi của họ đã bật thốt thành lời
Ôi ước gì được thấy mưa rơi
Điệp ngữ Ôi ước gì lặp lại ba lần trong đoạn thơ thứ hai có giá trị biểu cảm mãnh liệt. Người lính luôn mong ước được thấy mưa rơi nơi bao quanh toàn là biển khơi mênh mông. Đó là niềm mong ước không phải bình thường, thoáng chốc mà trở thành nỗi niềm da diết, cháy bỏng. Họ suy nghĩ về viễn cảnh tươi đẹp, về mưa và nói với chúng ta niềm vui sướng của họ mỗi khi mưa rơi xuống.
Ôi ước gì được thấy mưa rơi
Mặt chúng tôi ngửa lên như đất
Những màu mây sẽ không thôi héo quắt
Đá san hô sẽ lày cỏ xanh lên
Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền
Chúng tôi không cạo đầu để tóc lên như cỏ
Rồi kháo nhau bữa tiệc linh đình bày tỏ nước ngọt
Chỉ một với một đoạn thơ ngắn chúng ta có thể tưởng tượng được cả không gian hiện lên khi mưa xuống. Người lính vui mừng ngửa mặt đón cơn mưa, màu mưa trên trời không còn héo quắt như khi nắng hạn . Hình ảnh dí dỏm nhất đó là mái đầu mọc tóc nên như cỏ của chàng lính. Bởi vì thiếu nước ngọt họ phải cạo trọc đầu để tiết kiệm nước và khi có mưa mái tóc ấy sẽ lại mọc xanh tươi và bữa tiệc liên hoan của họ cũng thật thú vị.
Tuy không có sơn hào hải vị mà chỉ toàn nước ngọt đó chính là nước mưa, thế mới biết khi sinh sống ở trên đảo mưa đối với họ quý giá để vô cùng. Dẫu chỉ là niềm vui trong tưởng tượng, chỉ là những điều có thể xảy ra trong tương lai mà ta nghe như thế tiếng kêu hân hoan ngân nga trong từng câu chữ khao khát trời mưa của họ vẫn tiếp tục giao tiếp cháy bỏng
Ôi ước gì được thấy cơn mưa
Cơn Mưa lớn vẫn Rập rình ngoài biển
Ánh chớp xanh vẫn lấp loáng phía chân trời
Nắng gió Trường Sa Đã đưa những người lính trở về thực tế chẳng bao lâu khao khát lại bùng lên những cơn mưa tưởng tượng, lại tiếp tục dâng lên trong lòng người lính.
Ôi ước gì được thấy mưa rơi
Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy loi choi trên mặt cát
Giãy giụa tơi bời trên mặt cát như con cá rô
Rạch nước đón mưa rào
Úp miệng vào tay
Chúng tôi sẽ cùng gào như ếch nhái um um khắp đảo
Khổ cuối bài thơ là cảm xúc vui sướng vỡ òa của người lính niềm vui khi mưa xuống, biến thành những hành động kỳ lạ, họ sẵn sàng cởi trần đứng giữa màn mưa để tưới mát thân thể, tưới mát tâm hồn họ. Họ chẳng ngại nhảy loi choi như những đứa trẻ, tinh nghịch, họ có thể cùng gào lên như tiếng ếch nhái, những tiếng hát của trái tim, của tâm hồn hân hoan bất tận cứ tuôn trào trong thơ, ào ạt giống như những cơn mưa đang xối xả tuôn xuống.
Niềm hạnh phúc vô biên của người lính không thể diễn đạt bằng lời mà bằng hành động. Phải thấu hiểu, đồng điệu đến thế nào nhà thơ mới có thể nhập hồn vào những người lính ấy để nói lên nỗi mong chờ của họ về mưa.
#cóthểvào(đag dùng mẫu 1 ạ)
(https://luatminhkhue.vn/phan-tich-danh-gia-noi-dung-bai-doi-mua-tren-dao-sinh-ton.aspx) để tham khảo thêm nhé ạ