nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan dẫn đến sự suy tàn của phố Hiến
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nguyên nhân khách quan : Vào giữa thế kỷ 19 hầu hết các nước tư bản đã hoàn thành cuộc cách mạng tư sản.Nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ và đang đứng trước nhu cầu về thị trường, nguyên liệu, nhân lực.Vì vậy đã đẩy mạnh việc xâm lược thuộc địa, do đó các nước châu Á nói chung và việt nam nói riêng đã trở thành mục tiêu xâm lược của các nước phương Tây
Nguyên nhân chủ quan: Vào giữa thế kỉ 19 VN là 1 nước phong kiến dưới triều Nguyễn chế độ phong kiến đang rơi vào khủng hoảng suy yếu
Về kinh tế: 1 nền kinh tế lạc hậu kém phát triển
Về xã hội: mâu thuẫn giai cấp gay gắt
Về quân sự: 1 nền quân sự lạc hậu
Về đối ngoại: C/S bế quan tỏa cảng làm cho nước ta bị cô lập vs thế giới bên ngoài , cấm giáo sĩ phương Tây truyền đạo
Từ những điều kiện trên đã tạo thuận lợi cho thực dân pháp xâm lược việt nam
Về cơ bản:
- Do Đảng và Nhà nước Liên Xô cũng như Đông Âu duy trì quá lâu đường lối quản lý hành chính tập trung quan liêu, bao cấp, mệnh lệnh, đóng cửa trên cả phương diện đối nội và đối ngoại, …
-Nội bộ chính quyền của Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều bất đồng, không thống nhất về đường lối, chủ trương và chính sách
-Đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng có nhiều điểm không hợp lý, quá chủ quan, nóng vội
Khách quan:
-Do sức ép của việc phải chạy đua vũ trang và luôn bị chống phá bởi các âm mưu, chiến lược của các thế lực thù địch trong và ngoài nên chế độ chủ nghĩa xã hội Liên Xô và các nước Đông Âu dễ dàng bị đẩy vào tình thế khó khăn.
Nguyên nhân gây TNGT:
Theo cá nhân tôi suy nghĩ các vụ TNGT đã xảy ra trong cả nước tất cả đều nằm ngoài ý muốn của mọi người trong lúc tham gia giao thông, song cũng có những nguyên nhân chủ quan, khách quan:
Do người tham gia giao thông bao gồm người điều khiển phương tiện cũng như người đi bộ đã không chấp hành luật lệ giao thông đã quy định.
Mật độ dân số cũng như các phương tiện tham gia giao thông là quá đông
Các khu vực dân cư,nhà máy, chợ tất cả xây dựng tự phát nằm sát đường giao thông không được quy hoạch
Đường GT thị trấn, thị xã, thành phố, đã lạc hậu,lòng đường GT quá hẹp, nhà XD sát lề đường dành cho người đi bộ không có cũng như không lề đường dành cho các loại xe khi dừng đỗ đón trả khách.
Khi XD đường giao thông không đồng bộ với các công trình giao thông khác, như cấp thoát nước, thủy lợi, bưu điện.
Các điểm ngã tư, ba, các góc cua còn hạn chế.
Các giải pháp khắc phục.
Để giảm thiểu TNGT theo tôi Bộ GT cùng các nghành các cấp, tổng kết xác định các vụ TNGT trên toàn quốc.
-Do người điều khiển phương tiện, uống rượu bia %.
-Do người điều khiển phương tiện mệt mỏi quá sức %.
-Do phương tiện quá cũ nát %.
-Do người đi bộ %
-Do gia súc %
-Do đường giao thông %
-Do các loại khác %.
Để làm được điều này đề nghị các biên bản xử lý phải xác định rõ nguyên nhân gây tai nạn giao thông từng vụ. Từ đó mới phân loại được.
Khi xây dựng thị xã, nhà máy …không nên bám vào 2 bên quốc lộ, nhất là đường cao tốc. Nếu XD thì phải cách mặt đường từ10 đến 15 m.
Các khu dân cư mới phải quy hoạch đồng bộ và nếu có xây dựng chỉ xây dựng 1 bên đường, không nên xd bám 2 bên đường vì nếu XD 2 bên sẽ có sự đi lại từ bên này qua bên kia nhất là trẻ em.
Tất cả những đường giao thông nội thị, ngoại thị đều có điểm dừng xe ở 2 bên đường. Tùy từng nơi từng chỗ, tránh tình trạng lái xe đỗ ngay bên đường.
Để phát huy hiệu quả sử dụng các tuyến đường cao tốc hay các loại đường giao thông khác. Rút kinh nghiệm tuyến đường QL 5, có rất nhiều cầu vượt cho người đi bộ nhưng chưa phát huy hiệu quả.
Tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều, càng nghiêm trọng. Tai nạn để lại cho xã hội những hậu quả nặng nề: hàng chục ngàn người chết mỗi năm, đa phần là những người trẻ tuổi.Chúng ta đang rơi vào một thảm hoạ của giao thông...
Vậy, nguyên nhân chính bắt nguồn từ đâu? Cần làm rõ để thoát khỏi tình trạng nguy hiểm này!
- Có người cho rằng: tai nạn xảy ra là do nguời điều khiển phương tiện có ý thức kém, không tôn trọng luật giao thông, sử dụng bia rượu khi điều khiển xe, chạy quá tốc độ cho phép, phóng nhanh vượt ẩu và nhiều nguyên nhân chủ quan khác... Tất nhiên mọi tai nạn đều được gây bởi người điều khiển, nhưng tai nạn không chỉ chi phối bởi các nguyên nhân chủ quan mà còn bị tác động bởi các nguyên nhân khách quan và chính yếu tố khách quan mới là nhân tố quan trọng trong việc hình thành tai nạn.
Theo tôi, trong các loại hình di chuyển: máy bay, tàu hoả, tàu điện, ôtô, môtô, xe máy...thì môtô, xe máy được nguời dùng ưa thích vì chúng tiện lợi, gọn nhẹ, dễ sử dụng. Nhưng chính loại hình nầy lại là kém an toàn nhất ! Xã hội ta hiện nay đang chọn loại hình di chuyển nầy để đi lại mỗi ngày, môtô-xe máy đang phục vụ cho hàng triệu người từ thành thị đến nông thôn.
Hãy nhìn quanh, có quốc gia nào mà tỉ lệ người sử dụng môtô-xe máy lại cao như ở nước chúng ta! Sai lầm trong việc lựa chọn hình thức di chuyển là nguyên nhân chính dẩn đến tai nạn xảy ra nhiều, nhất là trong bối cảnh hệ thống giao thông của ta đang phát triển hỗn độn, dễ mất an toàn.
Ngoài nguyên nhân gây bởi loại hình di chuyển, tai nạn còn bị chi phối bởi các nguyên nhân khách quan khác như:
- Đường sá nhỏ hẹp, chỉ phù hợp với các loại xe di chuyển chậm, mật độ thưa. Các con đường đang được nâng cấp tu sửa nên dễ dẩn đến các bất hợp lý, sự cố trên đường.
- Lượng xe lưu thông quá nhiều, mật độ quá lớn; đa phần là ôtô, môtô phân khối lớn. Đặc biệt trong thời gian gần đây: mật độ xe tăng nhanh là nguyên nhân làm rối loạn, giảm độ an toàn và tính ổn định của hệ thống giao thông.
- Đội ngũ điều hành, quản lý giao thông có trình độ nghiệp vụ yếu, hoạt động kém hiệu quả...
Tất cả các nguyên nhân chủ quan, khách quan tạo nên một bức tranh hổn độn về giao thông. Hậu quả là hằng trăm vụ tai nạn xảy ra mỗi ngày, là nỗi đau mà chúng ta phải gánh chịu trong thời bình.
Riêng loại hình môtô, xe máy mà chúng ta ưa chuộng cũng là chuyện cần bàn: Những năm gần đây, đa phần các xe được cấp phép lưu hành đều có dung tích xi lanh lớn cỡ 110 cm3 trở lên. Các xe nầy có hình thức đẹp, chạy êm và dễ sử dụng. Xe có công suất tải lớn, dễ dàng chở 2 hoặc 3 người kèm theo và dễ dàng đạt tốc độ cỡ 80 km/giờ.
Thật thú vị khi điều khiển một chiếc xe có nhiều tính năng tuyệt vời như thế, nhất là với các bạn trẻ! Tuy vậy, sự thú vị chỉ đến khi người điều khiển làm chủ được tay lái; còn khi nguy cấp, sự sợ hãi làm tê cứng mọi cử động thì chiếc xe như một con ngựa bất trị, hung hãn và vô cùng nguy hiểm. Biết được điều nầy thì tai nạn đã đến và mọi chuyện đã quá muộn...!
Với đường sá nhỏ hẹp ở các thành phố ta, theo quy định các môtô phải di chuyển với tốc độ nhỏ hơn 40km/giờ. Vậy, cho lưu hành phổ biến loại môtô phân khối cỡ trên 110cm3 là không phù hợp thực tế, vô hình chung chúng ta trang bị một khả năng chở nhiều, phóng nhanh, vượt ẩu và tai nạn xảy ra thì thường là hậu quả rất nặng nề.
Ở nông thôn tình trạng đường sá còn kém hơn, đa phần người sử dụng mới làm quen với môtô-xe máy nên tai nạn càng dễ xãy ra hơn...
Trong tình trạng như hiện nay, để hạn chế tai nạn giao thông cần những giải pháp gì?
Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của đ/c bộ trưởng Bộ GTVT khi cho rằng: cần hạn chế phương tiện đi lại cá nhân và tăng cường phương tiện đi lại công cộng ( Tuổi Trẻ ngày 22-12-2006 ).
Tôi không phải là chuyên gia về lĩnh vực an toàn, nhưng ở diễn đàn nầy cũng xin được tham gia vài ý kiến của riêng mình:
- Cần tuyên truyền và làm cho mọi người rõ việc đi lại bằng môtô-xe máy là tiện lợi nhưng rất nguy hiểm, kém an toàn. Từ đó hướng người dân sử dụng các loại phương tiện khác an toàn hơn như: xe bus, tàu điện... Đồng thời cần tổ chức thật tốt, thật thuận tiện và an toàn các phương tiện công cộng để người dân tin dùng.
- Hạn chế việc quãng cáo các loại môtô phân khối lớn trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cấm lưu hành các loại xe phân khối lớn có hình dạng thể thao, đặc biệt là những xe có dung tích xi lanh trên 170cm3.
- Tăng cường trật tự giao thông, xử phạt nghiêm minh. Phân luồng, phân tuyến cho từng loại xe lưu thông trên đường, đồng thời quy định một số tuyến đường phải lưu thông một chiều để tăng vận tốc định hướng nhằm đảm bảo tính trật tự của hệ thống giao thông.
- Hạn chế tốc độ xe lưu thông bằng cách thiết kế một thiết bị cảnh báo tự động và gắn vào xe. Thiết bị nầy phát tín hiệu ánh sáng hoặc âm thanh, nó sẽ hoạt động khi người điều khiển xe vượt quá tốc độ cho phép. Một thiết bị như thế dễ dàng chế tạo và cần trang bị khi xe được xuất xưởng.
- Hạn chế mật độ môtô-xe máy lưu thông bằng nhiều biện pháp như: quy định tuổi cho người điều khiển, quy định thời gian sử dụng tối đa cho xe môtô, kiểm tra độ an toàn của xe và thu hồi giấy phép các xe không đảm bảo an toàn, đóng phí giao thông hoặc không trợ giá bán xăng cho môtô-xe máy...
Để làm giảm tai nạn giao thông cần có sự quyết tâm của nhà nước và sự đồng thuận của nhân dân. Nhà nước cần đưa ra các biện pháp cụ thể, đồng bộ ở tầm vĩ mô và được nhân dân hưởng ứng thì mới hy vọng xoay chuyển tình trạng giao thông của ta hiện nay.
Đáp án C
Nguyên nhân khách quan quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do sự chống phá của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, đặc biệt là các nước tư bản phương Tây với thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, mạng lưới điệp viên, ….
Đáp án B
Những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu bao gồm:
*Nguyên nhân chủ quan:
- Đường lối lãnh đạo chủ quan, duy ý chí, quan liêu bao cấp làm cho sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân không được cải thiện.
- Thiếu dân chủ, thiếu công bằng, … làm nhân dân bất mãn.
- Không bắt kịp bước phát triển của khoa học - kỹ thuật tiên tiến,dẫn đến tình trạng trì trệ,khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Phạm phải nhiều sai lầm trong cải tổ làm khủng hoảng thêm trầm trọng.
*Nguyên nhân khách quan:
- Sự chống phá của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước
Đáp án B
Những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu bao gồm:
*Nguyên nhân chủ quan:
- Đường lối lãnh đạo chủ quan, duy ý chí, quan liêu bao cấp làm cho sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân không được cải thiện.
- Thiếu dân chủ, thiếu công bằng, … làm nhân dân bất mãn.
- Không bắt kịp bước phát triển của khoa học - kỹ thuật tiên tiến,dẫn đến tình trạng trì trệ,khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Phạm phải nhiều sai lầm trong cải tổ làm khủng hoảng thêm trầm trọng.
*Nguyên nhân khách quan:
- Sự chống phá của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước.
Vào những năm 50-60 của TK XX, khi Mỹ xâm lược Triều Tiên và Việt Nam, nền kinh tế Nhật Bản có cơ hội để p.triển''thần kì'' vượt qua các nc Tây Âu vươn lên hàng thứ 2 trg TG tư bản.
+ Tổng sản phẩm quốc dân: 1950 đạt 20 tỉ đôla ( bằng 1/17 nc Mỹ); đến 1968 đạt 183 tỉ đôla( đứng thứ 2 TG sau Mĩ)
+ thau nhập bình quân đầu ng đạt 23.796 đôla( đứng thứ 2 TG sau Thụy Sĩ)
+ công nghiệp: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là từ 13,5% ->15%/ năm.
+ Nông nghiệp: cung cấp đc hơn 80% như cầu lương thực trg nc.
=> Từ những năm 70 của TK XX Nhật Bản trở thành 1 trg 3 trung tâm tài chính của TG cùng vs Mỹ và Tây Âu.
Nguyên nhân:
- Khách quan: Điều kiện quốc tế thuận lợi như nền kinh tế TG đag phát triển, cuộc cách mangk khoa học kĩ thuật lần 2 đag bùng nổ vs nhiều thành tựu tiến bộ...
- Chủ quan:
+ Truyền thống văn hóa, giáo dục lâu đời: ng Nhật sẵn sàng tiếp thu những giá trị tiến bộ của TG nhg vẫn giữ đc bản sắc dân tộc.
+ Các xí nghiệp, công ty có hệ thống tổ chức quản lý rất hiệu quả.
+ Nhà nc đã đề ra các chiến lược p.triển hết sức đúng đắn, sáng suốt, nắm bắt đúng thời cơ, có sự điều tiết cần thiết để đưa nền kinh tế liên tục phát triển.
+ Con ng lao động NB đc đào tạo chu đáo, cần cù lao động, có ý chí vương lên đề cao kỉ luật, và coi trọng tiết kiệm.