giúp mik với
viết két bài bài văn nghị luận về sức nặng của đỉnh vinh quang
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Bố cục chặt chẽ, hệ thống luận điểm logic, mạch lạc, vừa có sự tiếp nối bổ sung, giải thích cho nhau
- Văn nghệ không chỉ phản ánh thực tại khách quan mà còn nhận thức mới mẻ, tư tưởng, tình cảm của cá nhân, nghệ sĩ
- Tiếng nói của văn nghệ cần thiết với cuộc sống con người, trong hoàn cảnh những năm đầu kháng chiến
- Văn nghệ có sức mạnh cảm hóa, sức lôi cuốn kì diệu, bởi đó là tiếng nói của tình cảm, tác động tới con người bằng rung cảm sâu xa
Tham khảo:
Chiến tranh đã qua lâu nhưng những mất mát, những nỗi đau mà chiến tranh mang lại vẫn như đang hiện hữu. Rất nhiều tác phẩm đau thương về chiến tranh đã được các nhà văn, nhà thơ chắp bút. Cũng viết về một thời đạn bom khốc liệt nhưng Nguyễn Quang Sáng đã “vượt qua bi kịch của chiến tranh” để “cất cao bài ca thiêng liêng về tình phụ tử”, viết nên truyện ngắn nổi tiếng “Chiếc lược ngà”. Truyện đã tái hiện được nỗi mất mát của chiến tranh, nhưng vượt lên trên nỗi đau ấy là tình cha sâu nặng, rực sáng dù đứng giữa hoàn cảnh éo le của cuộc chiến.
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến ngay khi đứa con gái của ông còn nhỏ. Suốt 8 năm trời ròng rã, ông lúc nào cũng nhớ thương, mong ngóng đến ngày được về gặp con. Cuối cùng sau bao tháng ngày trông đợi, ông cũng có dịp về thăm nhà, “cái tình người cha cứ nôn nao” trong ông. Ngay khi thuyền còn chưa cập bến, ông Sáu đã vội vàng nhảy lên bờ, bước những bước dài đến bên con. Ông gọi to tên con, khom người xuống rồi dang rộng vòng tay với niềm mong chờ sẽ được con chạy nhanh đến ôm chầm lấy ông, sà vào lòng ông kêu một tiếng “ba”. Phải trông mong, nhớ thương con đến nhường nào mới khiến một người lính dày dạn nơi chiến trường trở nên vội vàng, luống cuống như thế. Ông không kịp chờ thuyền dừng hẳn mà đã vội vàng nhảy lên bờ để đến bên con. Thế nhưng đáp lại những mong chờ suốt hàng năm trời của người cha, bé Thu lại sợ hãi, ngơ ngác như nhìn người lạ. Ông Sáu đã không kìm được nỗi xúc động, vết thẹo bên má giần giật, “giọng lặp bặp run run”. Ông lặp lại hai tiếng “ba đây con” “ba đây con” để mong con gái nhận ra mình nhưng con ông lại sợ hãi chạy đi. Không điều gì đau xót hơn thế! Nỗi niềm khát khao, mong nhớ của người cha như bị tạt một gáo nước lạnh. Nỗi đau của chiến tranh, của vết thẹo dài trên mặt cũng không là gì khi đứng trước sự hụt hẫng, đau khổ của một người cha không được con nhận ra.
Suốt mấy ngày ở nhà, ông Sáu chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng ở bên con, hằng mong ba con sẽ thân thiết hơn, mong con gọi một tiếng “ba”. Thế nhưng bé Thu lại ngày càng xa cách, phản ứng dữ dội mỗi lần phải nhắc đến từ “ba”. Trước sự cứng đầu của con gái, ông Sáu buồn và bất lực nhưng cũng chỉ biết lắc đầu cười chua xót. Và rồi đến khi con nhận ra mình thì cũng là lúc ông phải lên đường. Giây phút ông Sáu được nghe tiếng gọi “ba” mà ông mong ngóng bấy lâu thì cũng là lúc hai cha con phải xa nhau. Tình yêu và sự kìm nén bấy lâu đã khiến một người đàn ông phải “rút khăn lau nước mắt”.
Ông Sáu trở lại chiến trường, lúc nào cũng canh cánh với lời hứa tặng con một cây lược. Ông gửi gắm tình yêu và nỗi nhớ con vào chiếc lược nhỏ, “thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Nhưng chiến tranh tàn khốc khiến ông không kịp đưa chiếc lược trao tận tay con mình. Ông Sáu hy sinh trong một trận càn quét của địch. Những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông không kịp căn dặn điều gì, duy chỉ có “tình cha con là không thể chết”, nỗi bận lòng cuối cùng của ông vẫn là người con gái bé bỏng, yêu thương.
Nếu như ở nhân vật ông Sáu ta thấy được tình yêu sâu nặng của người cha dành cho con gái thì bé Thu lại mang đến một tính cách hồn nhiên mà cứng cỏi, yêu ba tha thiết. Cô bé có tính cách yêu ghét rạch ròi, nhất định không chịu gọi “ba” vì đinh ninh ông Sáu không phải ba mình. Khi mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm, bé Thu “né” ngay từ “ba” mà chỉ nói trống không “Vô ăn cơm”. Khi mẹ dặn nhờ ba chắt nước nồi cơm, bị dồn vào thế khó vì nồi cơm quá lớn, đứng trước sự lựa chọn là để cơm nhão hay gọi một tiếng “ba” để ba giúp, cô bé đã tự đưa ra một giải pháp khác – tự mình xoay xở, tự lấy muôi múc từng chút nước một. Bé Thu thông minh, nhanh nhẹn và rất cá tính.
Đỉnh điểm câu chuyện là lúc ông Sáu gắp cho con một cái trứng cá nhưng bé Thu không ăn lại hất ra và bị ba đánh. Trái với suy nghĩ của mọi người là cô bé sẽ khóc lóc, ăn vạ, nhưng bé Thu lại lặng im gắp cái trứng cá vào bát rồi bỏ sang nhà ngoại. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng với tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không hề đáng trách. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu hết được sự khốc liệt của chiến tranh mang lại.Thu không chịu gọi ông Sáu là ba vì vết thẹo trên mặt khiến ông trông khác với tấm hình chụp chung với mẹ. Trong tâm trí của Thu, ba phải là người giống hệt tấm ảnh mình vẫn hay thấy. Sự ngây thơ của con trẻ khiến người đọc vừa thấy cười, vừa thấy thương. Chiến tranh để lại muôn vàn nỗi đau, nhưng có lẽ nỗi đau tình thân bị chia cắt là đau đớn nhất.
Khi đã được bà ngoại giải thích, Thu trăn trở “thở dài như người lớn”. Có lẽ cô bé đang hối hận vì đã xa lánh, ngang bướng với ba. Tất cả nỗi nhớ mong, suy tư dồn nén như được giải tỏa vào sáng hôm sau, khi ông Sáu chuẩn bị lên đường. Bé Thu gọi to một tiếng “ba” – tiếng gọi mà cô bé ao ước được gọi từ lâu. Tiếng gọi như “xé cả ruột gan”, “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Cô bé níu chặt lấy cổ ba, hôn cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài đáng sợ bên má của ba nữa. Qua tâm lý và hành động của bé Thu, tác giả đã khắc họa rõ nỗi đau chiến tranh, chiến tranh đã khiến bao gia đình chia cắt, vợ mất chồng, con không nhận ra cha… Một tiếng gọi “ba”, một cái ôm của ba và con tưởng chừng như đơn giản nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh lại trở nên khó khăn, xa vời.
Nguyễn Quang Sáng đã rất tài tình khi tạo dựng được tâm lý nhân vật rất đặc sắc. Bác Ba điềm tĩnh, quan tâm đến đồng đội. Ông Sáu yêu thương con vô hạn, mong từng giây từng phút để gặp con; đau khổ, bất lực khi con bướng bỉnh hay nhớ thương, gửi gắm tình yêu vào cây lược tặng con. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được nhân vật bé Thu hồn nhiên mà cá tính, đôi khi bướng bỉnh nhưng yêu ghét rõ ràng. Cô bé rất yêu ba, rất nhớ ba nhưng vì sự ngây thơ của trẻ nhỏ cùng với tính cách cứng cỏi mà đã hiểu lầm ba.
Tác giả cũng khéo léo đặt nhân vật vào các tình huống truyện éo le để họ tự bộc lộ tính cách của mình. Phải thấy ông Sáu trong tình huống oái oăm con không nhận cha thì mới hiểu được tình yêu tha thiết, nỗi khát khao được ở bên con của ông. Đặt bé Thu vào tình huống gặp lại ba khi trên mặt ba thay đổi, có một vết thẹo dài cho đến khi bé hiểu ra nguyên nhân thì mới thấy được cô bé cũng yêu và tôn thờ ba đến nhường nào. Vì quá yêu ba nên mới không chấp nhận một người nào “trông khác với ba trong tấm hình chụp chung với mẹ”. Tình huống truyện kịch tính nhưng vẫn rất tự nhiên, có tính chất đảo ngược tình thế để tạo bất ngờ, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, đồng thời giúp làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là tác phẩm bất hủ về tình cha con thiêng liêng giữa hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Câu chuyện về ông Sáu và bé Thu là minh chứng rõ ràng cho tình cha con thắm thiết, không điều gì có thể chia cắt. Qua câu chuyện, ta hiểu hơn về những mất mát đau thương mà chiến tranh mang lại để thêm tự hào và quý trọng cuộc sống hòa bình hôm nay.
I. Giới thiệu vấn đề
II. Các vấn đề liên quan đến việc sử dụng điện thoại của học sinh
III. Những giải pháp để giảm thiểu tác động của việc sử dụng điện thoại đối với học sinh
IV. Kết luận
Trong cuộc sống của mỗi con người muốn đạt được thành công, chúng ta không thể thiếu bản lĩnh. Vậy bản lĩnh là gì và tại sao lại đóng vai trò quan trọng đến vậy? Bởi bản lĩnh là những vấn đề quyết định một cách độc lập, không vì áp lực bên ngoài mà dễ dàng thay đổi. Một con người bản lĩnh luôn dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với thử thách khó khăn và không bao giờ chối bỏ trách nhiệm của mình. Nhờ vậy, trên đường đời với vô số chông gai, họ luôn giữ cho mình một tinh thần sắt đá, phong thái điềm tĩnh, sự kiên định đáng ngưỡng mộ và dễ dàng dành được sự tín nhiệm, tôn trọng từ những người xung quanh. Oprah Winfrey là một tấm gương tiêu biểu. Sinh ra tại một khu ổ chuột, lớn lên với người cha nghiện ngập, thậm chí đã từng bị xâm hại tình dục, bà vẫn kiên cường vượt qua mọi định kiến, gian nan để trở thành tỉ phú da màu ở tuổi 40 cũng như truyền cảm hứng cho biết bao mảnh đời bất hạnh. Tuy nhiên trong xã hội ngày nay vẫn còn một số người thiếu bản lĩnh trong cuộc sống, ngại khó, ngại khổ, luôn đổ lỗi cho số phận. Chính vì vậy họ mãi mãi không bao giờ chạm đến ngưỡng cửa thành công. Bản thân mỗi chúng ta hiểu được giá trị của bản lĩnh vì vậy cần xây dựng cho riêng mình một bản lĩnh vững vàng bằng cách không ngừng trau dồi tri thức, kĩ năng sống cũng như nhân cách. Hơn tất thảy, tuyệt đối không được nhầm lẫn giữa bản lĩnh với sự tự phụ hay bảo thủ. Bởi như John Ruskin từng nói, “ bản lĩnh là sự hợp nhất của kinh nghiệm, trí tuệ và đam mê trong guồng hành động”.
Muốn vượt qua gian nan thử thách trên đường đời, con người không thể thiếu đi nghị lực. Vậy nghị lực là gì? Đó là là ý chí, là bản lĩnh, lòng quyết tâm vươn lên trong cuộc sống. Người giàu nghị lực luôn có sức sống mạnh mẽ, dám đương đầu với mọi thử thách khó khăn, kiên trì vượt qua nghịch cảnh để đi đến thành công. Trong thực tế, ta có thể bắt gặp không ít con người như vậy. Nguyễn Ngọc Ký thiếu đi đôi tay nhưng không ngừng nỗ lực để trở thành một người thầy đáng kính, Nick Vujick sinh ra với tứ chi khiếm khuyết nhưng chưa một lần chịu thua số phận, Stephen Hawking bị bại liệt ở tuổi ngoài 20 và được ngợi ca là nhà vật lí học đương đại nổi tiếng nhất… Họ chính là những tấm gương sáng, đem đến cho ta bài học quý báu về giá trị của ý chí, nghị lực và sự quyết tâm. Vậy nhưng, trong xã hội vẫn có một số người có lối sống ỷ lại, dựa dẫm, không có tinh thần phấn đấu, ý chí tiến thủ. Không chỉ tự đưa mình vào ngõ cụt, những người như vậy còn kéo lùi dòng chảy văn minh của nhân loại, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hôi. Thế hệ trẻ hôm nay cần phê phán lối sống này, không ngừng rèn đức luyện, nỗ lực bằng tất cả khả năng để có thể vững vàng tiến về phía trước. Bởi đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “Tuổi trẻ là tuổi của tương lai. Muốn có tương lai tốt đẹp thì phải chiếm lấy bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân”.
TK MK NHA!
Khép lại bài văn trên , ta có thể tổng kết lại rằng sức nặng trên đỉnh vinh quang là vô cùng nặng nề và lớn lao . Là mồ hôi nước mắt , là sự cố gắng của con người ta . Bản thân em cũng có thể cảm nhận thấy sự mệt mỏi khi đứng trên đỉnh vinh quang nhưng cuộc đời mấy ai có thể đứng trên đó . Con người luôn cần sự nỗ lực trong cuộc đời , hãy luôn nhìn đời bằng ánh mắt tích cực , lạc quan , có một ý chí , tâm hồn , nghị lực sống mạnh mẽ thì khi đứng trên đỉnh vinh quang ta sẽ không còn thấy có " sức nặng " nữa .