K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

31 tháng 3 2021

https://hoc247.net/hoi-dap/ngu-van-7/giai-thich-cau-tuc-ngu-sau-con-mua-troi-lai-sang-faq445929.html

21 tháng 3 2020

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, một trong số những người thân cận và gần gũi với Hồ Chí Minh nhất chính là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông có nhiều bài viết và sách về Hồ Chủ tịch, bằng vốn hiểu biết và lòng kính yêu chân thành dành cho Bác, và một trong số những bài viết hay và sâu sắc nhất về Bác của Phạm Văn Đồng phải kể đến Đức tính giản dị của Bác Hồ, tập trung thể hiện vẻ đẹp nhân cách của vị lãnh tụ vĩ đại bậc nhất của dân tộc.

Đức tính giản dị của Bác Hồ là một bài viết rõ ràng, luận điểm chặt chẽ, dẫn chứng và lý lẽ mà tác giả nêu ra vô cùng thuyết phục, điều đó không chỉ hấp dẫn độc giả mà còn giúp cho người đọc có những bài học bổ ích, từ đó càng thêm kính yêu Bác Hồ vĩ đại. Đầu tiên đức tính giản dị của Bác thể hiện rất rõ nét trong sự thống nhất giữa đời sống chính trị và phong cách sống thanh bạch của Bác. Tác giả nêu ra vấn đề cần nghị luận là "sự nhất quán giữa đời hoạt động...Hồ Chủ tịch", như vậy ta có thể thấy rằng trong câu dẫn ra vấn đề này có hai vế đối lập với nhau, "đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất" ứng với "đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn". Tuy là đối lập nhưng chúng lại bổ sung cho nhau, làm nổi bật lên sự hài hòa giữa phẩm chất cách mạng và phẩm chất đời thường của Bác. Sau đó Phạm Văn Đồng đã đưa ra một lời bình rất sâu sắc về nét phẩm chất tốt đẹp ấy của Bác rằng: "Rất lạ lùng, rất kì diệu...Bác Hồ vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý của một chiến sĩ cách mạng, tất cả vì dân, vì nước, vì sự nghiệp lớn, trong sáng, thanh bạch, tuyệt đẹp". Cách đưa ra vấn đề như vậy vừa ngắn gọn, rõ ràng, sâu sắc và đặc biệt làm làm nổi bật được chủ đề của cả văn bản - đức tính giản dị của Bác Hồ.

Sau phần đưa ra vấn đề cần nghị luận, tác giả tiếp tục đưa ra những dẫn chứng xác đáng để chứng minh đức tính giản dị của Bác, điều đó thể hiện trong đời sống thường nhật, trong lời nói và bài viết. Đầu tiên, trong đời sống thường ngày Phạm Văn Đồng bằng sự thân cận, gần gũi và sự hiểu biết của mình đã dẫn ra những dẫn chứng vô cùng xác đáng và chân thực bằng cách vừa chứng minh vừa giải thích và bình luận xen kẽ. Trong bữa cơm và đồ dùng, thì "bữa cơm chỉ có vài ba món", "lúc ăn Bác không để rơi vãi một hột nào", "cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn còn lại đều được sắp xếp tươm tất". Từ đó có thể thấy rằng Bác có lối sống vô cùng đạm bạc và giản dị, lời bình "Ở việc làm nhỏ đó...người phục vụ", cho thấy Bác là người rất biết quý trọng thành quả lao động của nhân vân và công sức của những người phục vụ mình. Về ngôi nhà của Bác "vẻn vẹn chỉ có vài ba phòng", và lúc nào cũng chan hòa ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn, thể hiện lối sống yêu và gần gũi chan hòa với thiên nhiên, cùng tâm hồn thanh bạc và tao nhã của Người. Trong làm việc, công tác Bác là người "suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc", Bác làm từ những việc lớn đến việc nhỏ, những việc Bác có thể tự làm thì không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Có thể thấy rằng Hồ Chủ tịch là một người tận tụy, cần mẫn, yêu lao động. Không chỉ vậy trong mối quan hệ với mọi người Bác cũng thể hiện là một người rất thân thiện và gần gũi, giản dị, viết thư cho một đồng chí, nói chuyện với các cháu thiếu nhi, rồi thì đặt tên cho các anh lính gác, đi thăm tập thể công nhân,... Cuối cùng tác giả Phạm Văn Đồng đã nêu ra một lời nhận định, giải thích về cội nguồn của đức tính giản dị của Bác rất hay và sâu sắc "Nhưng chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành thanh cao như nhà hiền triết ẩn dật. Bác sống giản dị, thanh bạch như vậy bởi vì Người sống sôi nổi phong phú đời sống và cuộc đấu tranh gian khổ ác liệt của quần chúng nhân dân. Đời sống vật chất giản dị càng hòa hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng tình cảm, với những giá trị tinh thần cao đẹp nhất".

Luận điểm tiếp theo của tác giả là sự giản dị của Bác thông qua lời nói và bài viết "vì muốn cho nhân dân hiểu được, nói được và nhớ được", sử dụng phương pháp lập luận chứng minh theo hướng nhân quả. Phạm Văn Đồng đã đưa ra dẫn chứng cụ thể chính là trích đoạn lời nói, bài viết của Bác với chân lý giản dị gần gũi, thân thuộc trong bản Tuyên ngôn độc lập "Không có gì quý hơn độc lập tự do", "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một ... không bao giờ thay đổi", mang sức mạnh vô địch, chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Đức tính giản dị của Bác Hồ là một bài viết thấm đẫm tình cảm chân thành, lòng kính yêu của tác giả đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Thông qua bài viết ta có thể thấy rõ được đức tính giản dị tốt đẹp của Bác được thể hiện qua nhiều phương diện từ đời sống hàng ngày, đến lời nói, bài viết của Bác, thông qua các luận điểm rõ ràng, dẫn chứng lý lẽ đầy sức thuyết phục. Để lại cho độc giả những cảm xúc sâu sắc, khơi gợi nỗi nhớ tha thiết và tấm lòng kính yêu Bác trong tâm hồn mỗi độc giả.

5 tháng 5 2021

hơi dài vì đây là đoạn văn không phải bài văn

Giải thích rõ vấn đề

Câu nói đề cao vai trò tình bạn trong cuộc sống con người. Tác giả đặt ra mối tương quan giữa hai yếu tố: trừu tượng và cụ thể, vật chất và tinh thần.

Mặt trời đại điện cho sự sống. Không có mặt trời con người không thể tồn tại. Đây là yếu tố cần thiết và quan trọng.

Tình bạn cũng quan trọng với con người như mặt trời vậy. Đó la mối quan hệ tình cảm tốt đẹp của con người. Tình bạn là sự thấu hiểu. đồng cảm, yêu thương, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ, hi sinh cho nhau.

Câu trên so sánh để thấy vai trò của tình bạn như hơi thở. như cuộc sống, như chân lí hiển nhiên.

Chứng minh vấn đề

Khi tìm bạn, kết bạn là tìm đến sự thấu hiểu, cùng quan niệm, chí hướng, sở thích.

-> Tri kỉ, tâm giao (Bá Nha, Tử Kì; Các Mác, Lênin)

Có bạn là ta có được sự chia sẻ niềm vui lẫn nỗi buồn (Tình bạn có thể nhân đôi niềm vui, chia sẻ nỗi buồn” (Cicero).

Khi buồn: Con người thường có tâm lí giấu kín, nỗi buồn có khi dẫn đến ức chế, suy sụp tinh thần. Bạn là nơi ta tin tưởng, trau đổi, sẻ chia. Sự sẻ chia đúng người, đúng chỗ giúp ta trút đi gánh nặng buồn đau.

Khi vuị: Niềm vui đong đầy căng tròn như quả bóng có nhu cầu giái tỏa. Khi ấy, bạn là nơi ta tìm đến để chia sẻ niềm vui (niềm vui lúc đó được nhân đôi).

-» Học sinh có thể lấy dẫn chứng trong thực tế đời sống, tình bạn của mình để phân tích chứng minh.

Khi ta gặp khó khăn, ngoài gia đình, bạn bè là nơi nương tựa, giúp đỡ. Sự giúp đỡ trở nên cao quý, đa dạng, nhiều cung bậc: Lời an ủi. Một bờ vai, một cái bắt tay. Một hành động cụ thể. Sự giúp đỡ vật chất hay tinh thần.

Giúp người có sức mạnh gượng dậy vượt qua và tìm được một người bạn tâm huyết. Khi bạn gặp khó khăn, một tình bạn chân chính khiến người ta có thể hi sinh vì nhau: giành lấy những khó khăn, giúp bạn và tùy điều kiện có thể hi sinh vì bạn. Đâv là sự cao cả, thiêng liêng nhất, trong tình bạn (như Lưu Bình , Dương Lễ).

Tình bạn là tình cảm rất cao quý, thiêng liêng không thể thiếu được.

Bình luận

Cicero đã đưa ra một vấn đề không mới nhưng rất được quan tâm, không phải ai cũng thấy được giá trị của tình bạn. Tác giả mượn cách nêu phản đề để nói về tình bạn. Đó là một tình cảm cao quý không thể thiếu được bởi trên đường đời con người không ai có thể sống thiếu bạn.

Tình bạn rất đa dạng và nhiều mức độ khác nhau

Tình bạn giao tiếp

Tình bạn tâm giao

Tình bạn trong làm ăn

-> Tùy mức độ thân thiết mà có tình bạn

Tình bạn chỉ cao đẹp khi phải xuất phát từ sự chân thành, thấu hiểu, không vụ lợi, nhỏ nhen, ích kỉ (bởi ích kỉ là liều thuốc độc có thể giết chết tình bạn)

Muốn có tình bạn cao đẹp cần phải:

Chân thành, thấu hiểu, yêu thương, chia sẻ giúp đỡ.

Phải biết giữ gìn và nuôi dường tình bạn bền chặt, sâu sắc.

Mỗi người hãy tìm một tình bạn chân thành để cuộc sống thêm tốt đẹp.

Trích: loigiaihay.com



Xem thêm tại: http://loigiaihay.com/cuoc-doi-mat-di-tinh-ban-the-gioi-mat-di-mat-troi-c36a589.html#ixzz4ZrDpp0Jl

22 tháng 3 2021

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài:

1. Quan niệm về đất nước qua các triều đại để đi đến giải thích đất nước nhân dân.

- Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
hay ” Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Nguyễn Trãi)

- Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.

2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân.

2.1 Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)

- Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta.

2.2 Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)

2.3 Đất nước được thể hiện ở bề sâu văn hóa dân tộc qua cái nhìn đầy tự hào của thanh niên yêu nước.
Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian. 

3. Đất nước của ca dao thần thoại

Chứng minh qua nghệ thuật của bài:
– Thơ trữ tình chính luận độc đáo
– Giọng thơ thủ thỉ tâm tình anh-em
– Chất liệu văn hóa dân tộc, văn học dân gian.

III. Kết bài

- Khái quát vấn đề

Xem thêm:

Soạn bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm siêu ngắn
Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

BÀI LÀM

     Đất Nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 - 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Đất nước hóa thân trong một mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm đà màu sắc văn hóa dân gian, tình tứ, dịu dàng mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ Hoàng Cầm; Đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sống động hiện hình lên trong thơ Nguyễn Đình Thi.

     Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc trong trẻo, xanh tươi nhất, rung động lòng người nhất, được tỏa sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện của thi nhân. Xuyên suốt đoạn trích Đất Nước, tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” nhuần nhyễn trong hình thức “Đất Nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết của cảm xúc nhà thơ.

     Giản dị như một lẽ tự nhiên, một vầng trăng cố tích huyền ảo gợi lên trong thế giới "ngày xửa ngày xưa”, một điệu hồn mềm mại trong sáng vút ngân từ trái tim nồng nàn yêu thương của mẹ trong những lời ru đong đầy vành nôi... tất cả thắm vào tâm hồn mỗi con người tự bao giờ. Dòng nước ngọt ngào của tình mẹ tắm mát hồn ta, ươm lên mảnh đất tâm hồn ta những hạt giống tốt lành đầu tiên để từ đó nảy mầm xanh tươi vươn lên đón nhận nắng gió của cuộc đời. Thế giới tuổi thơ - thế giới của trí tưởng tượng bay bổng ấy, thật kì diệu, gắn bó sâu xa tựa như trở thành hơi thở, thành máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn. Và cũng chẳng biết tự bao giờ, tình yêu quê hương đất nước đậm đà, từ vành nôi của mẹ, thành hình trong ta từ trong tiềm thức... Văn học dân gian nói chung, ca dao thần thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất điệu hồn dân tộc - một giọng điệu hồn hậu, tươi duyên và đằm thắm không ai khác chính nhân dân - tập thể những người lao động - trong quá trình lao động cải tạo thiên nhiên, là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. Với những xúc động chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiểu sâu sắc của một thanh niên trí tuệ có vốn văn hóa sâu rộng, phong phú đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội nguồn “ca dao, thần thoại” để bật lên ánh sáng tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, vừa độc đáo mới mẻ, vừa thể hiện cái nhìn chính xác, toàn diện, có chiều sâu của nhà thơ về đất nước, về nhân dân. Tư tưởng chủ đạo ấy thấm nhuần từ cảm xúc đến việc sử dụng chi tiết nghệ thuật bài thơ. Đi suốt đoạn trích, ta bắt gặp một thế giới vừa gần gũi, thân quen, vừa kì diệu sâu xa khơi dậy hồn đất nước. Và chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng được tắm đẫm, được bao bọc bởi bầu không khí văn hóa dân gian gắn bó máu thịt với mỗi tâm hồn, trong đó âm hưởng “đất nước của "nhân dân” là nốt nhạc chủ đạo ngân vang suốt bản đàn “đất nước”.

                                          Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

                                          Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”... mẹ thường hay kể

                                          Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

                                         Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

     Những câu thơ mở đầu đoạn trích, thật tự nhiên và sâu lắng, nói với ta bao điều giản dị mà cũng thật thiêng liêng, thật thấm thía. Một thế giới cổ tích, truyền thuyết xưa như ùa về, sống dậy trong tâm hồn người đọc: câu chuyện Trầu Cau với tình người nồng hậu, thủy chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc; sự tích Thánh Gióng như khúc anh hùng ca tráng lệ tự hào, biểu tượng sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và giữ nước. Hơi thở trải dài, trầm lắng ngân nga như tiếng lòng đất nước dội về tự thuở nào, gợi dậy quá trình sinh thành và tồn tại của đất nước. Nếu như trong cổ tích, truyền thuyết xưa, nhân dân là những cô Tấm, những chàng Thạch Sanh... hay hóa thân trong vẻ đẹp Thánh Gióng, Sọ Dừa, thì trên trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân hiện lên thân thương, gần gũi qua dáng hình của bà, của mẹ, của “dân mình”. Còn đất nước, không phải là một hình người khổng lồ xa lạ, hay là một khái niệm trừu tượng mà là những gì giản dị, thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Đất nước hiện hình từ câu chuvện cổ tích của mẹ, miếng trầu của bà đến cái kèo, cái cột trong nhà, hạt gạo ta ăn hàng ngày. Tất cả những vật thân quen, bình dị ấy trong dời sống vật chất, cùng với những phong tục tập quán trong đời sông tinh thần của nhân dân: ăn trầu, trồng tre, búi tóc sau đầu, cách đặt tên người..., và cả tình yêu của con người (“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”) đều làm nên khuôn mặt dân tộc - một dân tộc nghĩa tình, đằm thắm như trong câu ca dao gợi lên trong ta:

                                         Tay nâng chén muối, đĩa gừng

                                         Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau

     Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ. Đất nước bắt nguồn từ những cái hàng ngày gần gũi, lại là những cái bền vững sâu xa, đã hình thành và tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc; từ những phong tục tập quán xa xưa như không có tuổi, lại là sự tiếp nối thiêng liêng, thấm đượm qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa - lịch sử của đất nước thể hiện ngay trong cuộc sống gần gũi hàng ngày của nhân dân. Có thể nói, bằng những hình tượng cụ thể, sinh động giàu sức khơi gợi. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa mới mẽ, độc đáo về đất nước. Những câu thơ mở đầu như khúc dạo thiết tha đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật của đoạn thơ, vừa gần gũi, thân quen, vừa huyền ảo, diệu kì tự xa xưa.

     Không những thế, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với kỉ niệm riêng tư của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người. Tách Đất và Nước thành hai yêu tố, nhà thơ soi chiếu mối quan hệ Đất Nước với không gian và thời gian, với lịch sứ và hiện tại. Đất Nước là mảnh đất quen thuộc, gắn bó với mỗi con người:

                                        Đất là nơi anh đến trường

                                        Nước là nơi em tắm.

     Đất Nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Và thật thiêng liêng, Đất Nước là chứng nhân ghi dấu kỉ niệm tình yêu:

                                       Đất Nước là nơi ta hò hẹn

                                       Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

     Câu thơ thể hiện ngòi bút tài hoa, tinh tế của thi nhân. Ta như lắng nghe điệu bài ca dao “khăn thương nhớ ai" dìu dặt trong bài thơ. Kỉ niệm đẹp đẽ, xúc động của tình yêu như khơi dậy xôn xao, lấp lánh mỗi dòng thơ, ẩn sau đó là biết bao xao xuyến, bâng khuâng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Vì thế, ấn tượng về sự gắn bó thân thiết với mỗi cá nhân cùa đất nước càng khắc ghi sâu đậm.

     Những câu thơ sau lại thấm nhuần chất dân gian nhờ cách sử dụng linh hoạt chọn lọc chất liệu văn hóa dân gian:

                                       Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

                                       Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"

     Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở bình diện lịch sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng", truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ. Những câu thơ gợi cảm xúc trang trọng, thiêng liêng khi hướng về nguồn cội cha ông. Những giá trị truyền thống, phong tục, văn hóa bền vững ấy tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ, nối liền hiện tại và tương lai:

                                      Những ai đã khuất

                                      Những ai bây giờ

                                      Yêu nhau và sinh con đẻ cái

                                      Dặn dò con cháu chuyện mai sau

                                      Hàng năm ăn đâu làm đâu

                                      Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.

     Cảm nhận đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện mối quan hệ biện giải giữa con người và đất nước, tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm”:

                                      Trong anh và em hôm nay đều có một phần đất nước

     Một “Đất Nước của ca dao thần thoại” đi vào tâm hồn con người từ thuở trong nôi, một “Đất Nước của Nhân dân” gắn bó gần gũi, thiêng liêng trong cuộc sống hàng ngày, đất nước đã quấn quyện trong hơi thở, máu thịt mỗi người. Những câu thơ đang từ tính chất độc thoại, hướng nội chuyển sang đối thoại ,đặt ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước.

                                     Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

                                    Phải biết gắn bó và san sẻ.

                                    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

     Làm nên Đất Nước muôn đời. Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh, nhưng với giọng điệu thiết tha, với cảm xúc mãnh liệt bật lên từ trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về đất nước, điệu thơ có sức cuốn hút, thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn đất nước, hơn nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy để mảnh đất mãi màu mỡ, xanh tươi những khúc hát tự do như người con gái trong bài thơ.

     Quê hương của Giang Nam: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi”. Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh bởi trách nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình, với truyền thống văn hóa ngày xưa của nhân dân. Những câu thơ viết về chính trị mà không khô khan chính vì “phát khởi tự trong lòng'’ thi nhân, thấm nhuần cảm xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về đất nước, về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.

     Đi suốt đoạn thơ và nhập sâu vào cảm xúc nhà thơ, tư tưởng “đất nước của nhân dân” càng sáng lên rạng rỡ. Đất nước được nhìn từ phương diện địa lí, lịch sử văn hóa trở nên trang trọng, đẹp đẽ lạ thường.

     Những câu thơ như trải rộng mãi cùng cái nhìn, toàn cảnh thiên nhiên đất nươc từ Bắc xuống Nam, từ biển lên rừng. Đôi mắt thi nhân tưởng như muốn ôm trọn những cảnh quan mĩ lệ, kì thú của non sông:

                                 Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

                                 Cặp vợ chổng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

                                 Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

                                 Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

                                 Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

                                 Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

                                 Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

                                 Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.

     Vốn văn hóa dân gian sâu rộng trải ra trên mỗi trang thơ với những phát hiện mới mẻ,sâu sắc và tinh tế của nhà thơ. Những chất liệu dân gian như cổ tích, truyền thuyết... từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Trống Mái, từ chuyện Thánh Gióng đến sự tích chín mươi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất Tổ Hùng Vương, từ những sự tích về núi Bút, non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long hay những địa danh Nam Bộ... mỗi danh lam thắng cảnh tươi đẹp của đất nước gắn với truyền thuyết riêng, tạo nên một thế giới cố tích huyền diệu. Nhưng có lẽ nét sâu sắc hơn, tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn “đất nước của nhân dân” nên mỗi cảnh quan đất nước đều in dấu hình dáng con người: nhưng người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, những người dân,... và cả đến những con vật gần gũi thân quen của cuộc sống con người (con cóc, con gà quê hương) cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp dáng hình đất nước, nhân dân không chỉ bằng  những sinh hoạt của mình, cắt nghĩa các truyền thuyết, mà còn sáng tạo ra danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, mang hồn thiêng núi sông, dân tộc. Thiên nhiên đất nước hiện lên chính là một phần máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đó, tác giả khái quát, nâng lên như một suy tư giàu chất triết luận:

                                Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

                                Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha.

                                Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

                                 Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

     Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm đất nước, có bề lịch sừ hào hùng của đất nước như sống dậy. Ca dao xưa nói về nỗi nhớ quê hương qua những chi tiết thật bình dị của bữa cơm đạm bạc và bóng dáng dầm sương dãi nắng.

     Nhìn lại lịch sứ dài lâu của đất nước, ta thường khắc ghi các triều đại, ngợi ca  những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc.

     Những cảm quan “Đất Nước của Nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước. Những cụm từ lấy ra trong ca dao, tục ngữ: “nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” tạo cho lời thơ sự hòa quyện rất gợi cảm. Nốt nhấn của khúc ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:

                                 Họ đã sống và chết

                                 Giản dị và bình tâm

                                 Không ai nhớ mặt đặt tên

                                 Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

     Nhân dân trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác phẩm, ấn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của những con người vô danh, hiền lành và giản dị.

     Từ cái nhìn đầy tính phát hiện, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân, bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ đất nước, họ là những anh hùng chiến trận. Nhân dân, bằng lao động sáng tạo đã dựng xây đất nước, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hóa, phẩm chất tinh thần: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên xã, tên làng... họ là những anh hùng văn hóa. Nhân dân đã ấp iu qua nhiều thế hệ nhưng phẩm chất cao đẹp đúc kết trong những câu ca dao, tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ. Đó là cái gốc rễ mọi tình cảm đẹp, tình yêu thương, thể hiện trong câu ca dao hóm hỉnh:

                                                      Yêu em từ thuở trong nôi

                                                      Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

     Đó là sự quý trọng công sức lao độmg:

                                                      Cầm vàng mà lội qua sông

                                                      Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

      Đó còn là tinh thần bất khuất quật cường và lòng căm thù giặc sâu sắc:

Thù này ắt hẳn còn lâu

 Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què

     Sử dụng linh hoạt sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, dường như có một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế hệ hiện tại. Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân tộc thì tác giả mới có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy trong quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”.

     Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

                                                      Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

                                                      Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại.

     Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ? Và lời thơ kết rung động lòng người bởi nó bật lên từ sự xúc động chân thành của trái tim thi sĩ: “Ta nghẹn ngào đất nước Việt Nam ơi!”. Cái “nghẹn ngào” của nhà thơ thật đáng quý, đáng trân trọng, đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò to lớn và vẻ đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế hệ hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thông văn hóa, lịch sử vững bền mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau.

     Có thể gọi Đất Nước là một tùy bút thơ của Nguyễn Khoa Điềm, trong đó tác giả không đơn thuần viết theo dòng chảy cảm xúc mà còn huy động vào thơ kho hiểu biết dồi dào trong tính tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hóa dân gian mà tâm điểm là văn học dân gian. Đoạn trích được xây dựng theo phương thức luận đề, chất “tư duy lôgic” dễ làm thơ mất đi chất “tươi xanh nhựa sống”, khô khan, chỉ tác động vào lí trí. Hơn nữa với vốn kiến thức phong phú tổng hợp khiến thơ dễ sa vào ước lệ, khô cứng như một bài diễn ca xã hội học. Nhưng không! Viết về đất nước, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất chất liệu văn hóa dân gian, đưa vào ngôn ngữ thơ những chi tiết hiện thực gần gũi, phổ biến, không chỉ quen thuộc trong nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa đối với mọi tâm hồn Việt Nam. Việc sử dụng khá dày, đậm nhưng cũng rất linh hoạt sáng tạo nguồn văn học dân gian tạo nên thế giới thơ bình dị, gắn bó máu thịt với tâm hồn người đọc và dễ đi vào lòng người bởi ngôn ngữ dân gian hồn hậu, trong sáng. Chính sách sử dụng ngôn ngữ này tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bởi nhân dân đã sáng tạo ra nền văn học dân gian giàu sức sống, thân quen gần gũi với mỗi người dân đất Việt.

     Mặt khác, chính cám xúc chân thành, mãnh liệt của thi nhân mang lại cho nhà thơ âm hưởng tha thiết, ngân vang, với nhiều giọng điệu lúc thì nồng nhiệt say mê, khi lại trầm lắng như trò chuyện, tâm tình về những nhận thức, cảm xúc về đất nước, nhân dân. Mỗi chi tiết, hình ảnh đưa ra đều thấm nhuần tâm hồn nhà thơ, khi thì là cảm nhận riêng tư, lúc lại chứa chan cảm xúc như hồi ức, một kỉ niệm. Sự kết. hợp hài hòa chất trữ tình và giọng chính luận cho đoạn thơ vẻ đẹp riêng độc đáo, thơ không xa lạ mà đi vào lòng người tiếng nói tình cảm xúc động chân thành mà vẫn thế hiện chất trí tuệ. Chúng ta trải nghiệm bản thân của một nhà thơ - chiến sĩ lăn mình trong khói lửa chiến tranh cùng với vốn văn hóa sâu rộng và tình cảm yêu thương đất nước, trân trọng, ca ngợi nhân dân đã tỏa sáng tư tưởng, tâm hồn thi nhân.

     Cũng viết về đề tài đất nước, thơ ta chống Mĩ không chỉ kế tục truyền thống yêu nước từ văn học giai đoạn trước và trực tiếp nhất là thơ ca chống Pháp mà còn có đóng góp làm phong phú, sâu sắc thêm nguồn cảm hứng dạt dào này. Nguyễn Trãi trước kia từng thấy được vai trò “lật thuyền mới biết dân như nước”, Phan Bội Châu từng viết “dân là dân nước, nước là nước dân”, nhưng phải đến Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mới thể hiện rõ nét và được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật của thơ ca chống mỹ. Bằng những khám phá, phát hiện về chiều sâu văn hóa - lịch sử đất nước, sự gắn bó giữa truyền thống quá khứ và hiện tại, với con đường đi riêng: con đường của văn học dân gian gần gũi, kì diệu, tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm thấm vào từng hình tượng, ngôn ngữ với mối liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo và thông minh. Có thế nói đây là phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong trường ca Mặt dường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.

     Văn học chống Mĩ cũng có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân, đặt nền tảng cho lòng yêu nước: Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một Hơi ấm ổ rơm- hay hình tượng Tre Việt Nam, còn Thanh Thảo trong trường ca Những người đi tới biển đã viết lên những lời ca xúc động nhất, về nhân dân:

                                                   Và cứ thế nhân dân thường ít nói

                                                   Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

                                                   Và cứ thế nhân dân cao vời vợi

                                                   Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời

     Nhưng có lẽ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm với nhạc điệu “Đất Nước của thần thoại” để sáng lên tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” rất độc đáo là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca kháng chiến, thể hiện tâm  hồn cảm xúc thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa dân tộc, tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên giá trị của nó bởi trách nhiệm “hóa thân cho dáng hình xứ sở" là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống.

 

 

3 tháng 3 2022

Tham khảo:

1/Giản dị là một đức tính, một phẩm chất cao đẹp mà mỗi chúng ta nên có. Giản dị, với mỗi người, thường thể hiện ở lời nói, ở việc làm, thể hiện trong lối sống, trong quan hệ với người xung quanh. Nó là cách ứng xử cao đẹp, nói lên sự hiểu biết của bản thân mỗi chúng ta. Giản dị giúp chúng ta hài lòng với cuộc sống hiện tại và khiến tâm hôn con người trở nên nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Quan trọng nhất, giản dị giúp người gần người hơn. Bởi chúng ta sống gần gũi và chan hòa với mọi người xung quanh thì dù là người xa lạ khoảng cách giữa ta và họ dường như cũng không còn nữa.

2/Bác Hồ là một vị lãnh tụ có lối sống giản dị đáng để ngưỡng mộ và noi theo. Sự giản dị ấy được thể hiện từ trong lời ăn tiếng nói, trang phục và cách ứng xử hằng ngày của bác. Bác chỉ có vài bộ trang phục đơn giản. Tuy cũ những Bác vẫn sử dụng chứ không vất đi. Những bữa cơm của Bác thường chỉ có ba món. Nếu ăn không hết, sẽ được cất đi gọn gàng. Ngôi nhà Bác ở chẳng phải dinh thự mà chỉ là ngôi nhà nhỏ ba gian. Công việc hằng ngày Bác đều tự làm chứ chẳng cần kẻ hầu người hạ. Đến vườn rau, ao cá cũng do chính tay Bác tự chăm sóc. Với mọi người, Bác luôn đối xử chan hòa, yêu thương, không hề có sự kiểu cách hay trịch thượng. Chính điều đó, khiến hình tượng Bác trở nên gần gũi, thân thương trong lòng người dân Việt Nam. Và đến nay, vẫn lớp lớp thanh thiếu niên thi đua học tập theo lối sống của Bác.

24 tháng 3 2020

Giản dị là một đức tính, một phẩm chất cao đẹp mà mỗi chúng ta nên có. Giản dị, với mỗi người, thường thể hiện ở lời nói, ở việc làm, thể hiện trong lối sống, trong quan hệ với người xung quanh. Nó là cách ứng xử cao đẹp, nói lên sự hiểu biết của bản thân mỗi chúng ta. Giản dị giúp chúng ta hài lòng với cuộc sống hiện tại và khiến tâm hôn con người trở nên nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Quan trọng nhất, giản dị giúp người gần người hơn. Bởi chúng ta sống gần gũi và chan hòa với mọi người xung quanh thì dù là người xa lạ khoảng cách giữa ta và họ dường như cũng không còn nữa.

15 tháng 4 2021

undefined

24 tháng 3 2020

* Giản dị là một điều gì đó thật đơn giản, thật nhẹ nhàng, thanh thản trong cuộc sống; đó là một cuộc sống không xa hoa, cầu kì, lãng phí, vô ích. Giản dị là sự hòa hợp giữa sự thanh thoát về tâm hồn và trí tuệ.

*Ý nghĩa:Giản dị giúp con người hoàn thiện hơn trong cuộc sống. Biết yêu thương con người hơn và biết quý trọng mọi người hơn.

Tham khảo

6 tháng 5 2020

như thế viết mọi tay lắm, bạn nên tạo câu hỏi khác đi, như này thì ko ai trả lời đâu