Khái quát những cơ bản về con người TP Vinh
Giá trị khoa học của phường Hoàng Trung Đô Thành Cổ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nội dung văn chương: Hội tụ 2 nguồn cảm hứng yêu nước – nhân đạo
- Nghệ thuật: ông nhà văn chính luận tài tình, với sáng tác bằng chữ Nôm góp phần làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ dân tộc giàu, đẹp
Giá trị cơ bản của thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật.
* Về nội dung thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện 3 nội dung chính đó là:
- Dùng thơ văn như một vũ khí sắc bén, lợi hại phục vụ cho quá trình đấu tranh giành độc lập.
-Thơ văn ông mang tấm lòng yêu nước, thương dân.
-Thể hiện tình cảm say đắm về thiên nhiên, bộc lộ chí khí thanh tao.
Những nội dung này thể hiện ở các tác phẩm như: Bình Ngô Đại cáo, Quốc âm thi tập, Quan trung từ mệnh tập.
* Về nghệ thuật:
- Lời thơ cô đọng, giản dị, ý thơ mạnh mẽ, sắc sảo, thường phù hợp với việc diễn đạt những chân lý của đời sống, những quyết tâm hành động của nhà thơ
- Thơ Nôm Nguyễn Trãi mang tính uyên bác, sử dụng nhiều điển cố và các hình ảnh tượng trưng ước lệ.
- Tuy nhiên, nhờ sử dụng chữ Nôm, thơ Nguyễn Trãi đã ngày càng dung dị, tự nhiên, gần gũi..
a. Văn chính luận
- Viết bằng tiếng Pháp: Gồm những bài đăng trên các báo: Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền... đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1922).
- Viết bằng tiếng Việt: Tuyên ngôn độc lập (1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gi quý hơn độc lập tự do (1966).
- Mục đích văn chính luận của Bác: đấu tranh chính trị, tấn công trực diện kẻ thù được thể hiện những nhiệm vụ của cách mạng qua các thời kì lịch sứ.
- Đặc điểm nghệ thuật: da dạng, linh hoạt, kết hợp lí và tình, lời văn chặt chẽ, luôn đứng trên lập trường chính nghĩa để tuyên truyền hoặc tố cáo...
b. Truyện và kí
- Nội dung: Tố cáo thực dân và phong kiến, đề cao những tấm gương yêu nước...
- Nghệ thuật: tình huống truyện độc đáo, hình tượng sinh động, nghệ thuật trần thuật linh hoạt, giọng văn thâm thuý chứng tỏ Bác là một cây văn xuôi đầy tài năng.
c. Thơ ca
- Tập thơ chữ Hán: Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù)
+ Nội dung: Tái hiện bộ mặt tàn bạo của nhà tù Quốc dân đảng, một phần hình ảnh xã hội Trung Quốc. Tập thơ thể hiện bức chân dung tự hoạ con người tinh thần Hồ Chí Minh: khao khát tự do, nghị lực phi thường, giàu lòng nhân đạo, yêu thiên nhiên, Tổ quôc, trí tuệ sắc sảo “một tâm hồn vĩ đại của bậc đại trí, đại nhân, đại dũng" (Nhà văn Viên Ưng - Trung Quốc).
+ Nghệ thuật: Đa dạng về bút pháp, hồn thơ tinh thế, vừa cổ điển vừa hiện đại, hình tượng trong thơ luôn vận động, hướng về sự sống tương lai và ánh sáng.
- Thơ tuyên truyền, cổ động (Con cáo và tổ ong, Ca du kích...).
- Những bài thơ giải trí trong kháng chiến: Đối nguyệt (Với trăng , Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng), Thu dạ (Đêm thu), Báo tiệp (Tin thắng trân), Cảnh khuya...
-
Thiên văn học: sáng tạo ra lịch (Âm lịch) chia một năm ra 12 tháng, mỗi tháng có khoảng 29 đến 30 ngày. Họ biết làm đồng hồ đo thời gian.
- Chữ viết: tạo ra chữ viết (chữ tượng hình) được viết trên giấy Pa-pi-rút, trên mai rùa, trên thẻ tre hoặc các phiến đất sét ướt rồi đem nung khô.
- Toán học: nghĩ ra phép đếm đến 10, tính được số pi bằng 3,16.
- Kiến trúc, điêu khắc: xây dựng được các công trình kiến trúc đồ sộ như: kim tự tháp cổ ở Ai Cập, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà,...
Thiên văn học: sáng tạo ra lịch (Âm lịch) chia một năm ra 12 tháng, mỗi tháng có khoảng 29 đến 30 ngày. Họ biết làm đồng hồ đo thời gian.
- Chữ viết: tạo ra chữ viết (chữ tượng hình) được viết trên giấy Pa-pi-rút, trên mai rùa, trên thẻ tre hoặc các phiến đất sét ướt rồi đem nung khô.
- Toán học: nghĩ ra phép đếm đến 10, tính được số pi bằng 3,16.
- Kiến trúc, điêu khắc: xây dựng được các công trình kiến trúc đồ sộ như: kim tự tháp cổ ở Ai Cập, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà,...
Còn sử dụng là:
- Lịch: âm lịch và dương lịch.
- Chữ viết: hệ chữ cái a, b, c, chữ số La Mã I, II, III, ...
- Một số thành tựu khoa học cơ bản như phép đếm đến 10, số pi, các định luật Py-ta-go, định luật Ta-lét, ...
- Những công trình kiến trúc, điêu khắc: kim tự tháp, đền Pác-tê-nông,... là những kiệt tác có giá trị thu hút đông đảo khách du lịch.
Triết học Mác – Lê Nin khái quát thành năm hình thức cơ bản của thế giới vật chất từ thấp đến cao: Vận động cơ học, Vận động vật lí, Vận động hóa học, Vận động sinh học, Vận động xã hội.
Đáp án cần chọn là: C
-Khái quát: Con người vinh mộc mạc, chất phác, họ đối xử với nhau trân thành và thật lòng,...Các ngành kinh tế dưới bàn tay của những người dân cần mẫn ở Vinh liền trở nên phát triển, thịnh trị. Họ cần mẫn và yêu lao động,...
-Giá trị khoa học: Phường Hoàng Trung Đô Thành Cổ là nơi trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử và giờ đây nó đã phát triển vượt bậc. Sau bao năm tích cực cải cách giá trị đó đã mang tầm ảnh hưởng cực lớn,....
Tham Khảo chưa bt đúng hay sai (=:
Cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổ ra vào năm 1771 ở Bình Định do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lãnh đạo đã làm thay đổi bối cảnh chính trị xã hội quốc gia Đại Việt khi đó. Khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt tình trạng “Trịnh - Nguyễn phân tranh”, đất nước bị chia cắt thành Đàng Ngoài - Đàng Trong.
Trong những lần hành binh từ Phú Xuân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng nhận thấy Bắc Hà (phía Bắc của quốc gia Đại Việt, tính từ giới tuyến sông Gianh) là nơi khó trị sự, dễ sinh biến và từ Phú Xuân ra Thăng Long thì quá xa. Vì thế, ông đã nung nấu ý định lập một kinh đô mới gần Bắc Hà hơn. Nơi Nguyễn Huệ chọn là Nghệ An. Nghệ An là điểm giữa khoảng cách từ Phú Xuân tới Thăng Long, tiện cho việc đi lại. Một lý do nữa là Nghệ An là đất tổ của Nguyễn Huệ. Dòng họ Nguyễn ở Tây Sơn vốn gốc là họ Hồ ở đất Hưng Nguyên, Nghệ An. Việc đóng đô ở Nghệ An cũng dễ thu phục nhân tâm khi người dân xứ này đã phải khổ sở vì chiến tranh, chán ghét cả vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Sau nhiều lần lựa chọn đất xây dựng, cuối cùng kinh thành mới của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ - tức vua Quang Trung sau này, cũng được khởi công. Phượng Hoàng Trung Đô, hay còn gọi là Trung Kinh Phượng Hoàng thành, được xây dựng giữa núi Phượng Hoàng (tức núi Dũng Quyết) và núi Kỳ Lân (tức núi Mèo), thuộc xã Yên Trường, huyện Chân Lộc xưa (nay thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An). Chữ “Phượng Hoàng” là tên một loài chim quý trong truyền thuyết, cũng là tên núi Phượng Hoàng, còn “Trung Đô” nghĩa là kinh đô ở trung tâm đất nước.
Thành Phượng Hoàng Trung Đô được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1788 - 1792, nương theo địa thế tự nhiên. Về mặt cấu trúc, tòa thành có hai vòng là thành ngoại và thành nội. Thành ngoại có hình thang, chu vi 2.820m, diện tích 22ha, tường thành cao 3 - 4m, phía ngoài có hào rộng 3m, sâu 3m. Tường thành được xây kết hợp với các vách núi làm lũy tự nhiên. Thành ngoại có 3 cửa thành là cửa Tiền (phía Nam), cửa Tả (phía Đông) và cửa Hữu (phía Tây). Thành nội được xây bằng gạch vồ và đá ong, chu vi gần 1.680m, cao 2m; cửa lớn mở ra hai hướng Đông - Tây. Trong thành nội có tòa lầu rộng, cao 3 tầng, trước có bậc tam cấp bằng đá ong, sau có dãy hành lang nối liền với điện Thái Hòa dùng để thiết triều.
Đáng tiếc, tháng 9-1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời. Thời điểm ấy Phượng Hoàng Trung Đô cơ bản đã hoàn thành nhưng nhà vua chưa kịp dời đô từ Phú Xuân ra Nghệ An. Vua kế vị Quang Trung là Cảnh Thịnh - Nguyễn Quang Toản sau đó không dời đô như lời căn dặn của vua cha Quang Trung mà vẫn đóng ở Phú Xuân. Thành Phượng Hoàng Trung Đô dần bị quên lãng và trở thành phế tích.
Phượng Hoàng Trung Đô tuy chưa chính thức là kinh đô và có số phận ngắn ngủi, không may mắn, song đó là tâm huyết của vua Quang Trung và có ý nghĩa lớn trong một khoảng lịch sử biến động của Đại Việt, thể hiện tầm nhìn và khát vọng của vua Quang Trung về một đất nước hòa bình, thống nhất, phồn vinh.
Đền thờ trên đỉnh núi
Ở chân núi Dũng Quyết hiện nay vẫn còn dấu tích Phượng Hoàng Trung Đô với một số đoạn tường thành, hào nước, nền móng một số công trình kiến trúc. Những cuộc thăm dò khảo cổ đã cho thấy rõ hơn về một tòa thành - kinh đô trong quá khứ. Và để phát huy những giá trị văn hóa - lịch sử của di tích, thể theo nguyện vọng của nhân dân nhằm tỏ lòng biết ơn Hoàng đế Quang Trung, năm 2005 tỉnh Nghệ An đã khởi công xây dựng đền thờ Hoàng đế Quang Trung trên núi Dũng Quyết (nay thuộc phường Trung Đô, thành phố Vinh). Công trình khánh thành đúng dịp kỷ niệm 220 năm Phượng Hoàng Trung Đô (7-5-2008). Ngôi đền được xây dựng tại quê cha đất tổ của Hoàng đế Quang Trung và nằm trong quần thể di tích Phượng Hoàng Trung Đô - núi Dũng Quyết mang ý nghĩa tâm linh, lịch sử sâu sắc và có giá trị.
Để đến được đền thờ Hoàng đế Quang Trung trên đỉnh núi Dũng Quyết, du khách đi trên 81 bậc đá theo con đường uốn lượn từ chân núi tới lưng chừng núi. Tới cổng tứ trụ, bước thêm sẽ tới quần thể kiến trúc đền thờ gồm nhiều hạng mục: Nghi môn, nhà bia hai bên, nhà Tả vu, Hữu vu, Tiền điện và Chính điện. Tổng thể được xây dựng đăng đối theo một trục thần đạo, mang phong cách kiến trúc truyền thống, trang trọng, uy nghi. Các công trình được làm bằng gỗ lim; lối đi, bó vỉa, sân đền được lát đá Thanh. Hệ thống vì kèo kết cấu của đền được làm theo kiểu giá chiêng chồng rường, chạm khắc họa tiết tinh xảo. Mái lợp ngói mũi hài. Nền được lát gạch Bát Tràng kiểu cổ. Tường xây bằng gạch. Cửa đi và cửa sổ được làm kiểu bức màn thượng song hạ bản...
Đền thờ vua Quang Trung trên núi Dũng Quyết là một điểm hành hương tâm linh gắn với du lịch, là nơi du khách tưởng nhớ công ơn của người anh hùng áo vải của dân tộc và thưởng ngoạn phong cảnh hữu tình của mảnh đất địa linh nhân kiệt. Ông Phùng Xuân Hưng, một du khách đến từ Hà Nội bày tỏ: “Tôi thật sự bất ngờ khi lên thăm viếng đền thờ vua Quang Trung và được biết chính nơi này đã từng là một kinh đô trong quá khứ. Thật tiếc là những dấu xưa đã không còn nhiều. Nhưng việc xây dựng một đền thờ nơi đây là đúng và đủ để ghi dấu ấn lịch sử về vua Quang Trung”.
Ông Vũ Hồng Đức - cán bộ Ban quản lý đền thờ Hoàng đế Quang Trung cho biết: Kể từ ngày khánh thành, Ban quản lý đền thờ Hoàng đế Quang Trung đã vinh dự được đón tiếp nhiều vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương, cùng hàng vạn lượt du khách từ khắp mọi miền Tổ quốc, các đoàn khách quốc tế đến thắp hương tưởng niệm, thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ, tri ân đối với một trong những vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XVIII.
Với những giá trị văn hóa, lịch sử như vậy, đền thờ Hoàng đế Quang Trung trên núi Dũng Quyết như một gạch nối từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, lưu lại cho các thế hệ sau câu chuyện thú vị về người anh hùng dân tộc cùng dấu tích của một kinh đô bị quên lãng - Phượng Hoàng Trung Đô.