Phân tích đoạn thơ đầu bài Sang Thu của Hữu Thỉnh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
SANG THU (HỮU THỈNH)
- Không phải là "Thu sang" mà là "Sang thu": Thiên nhiên sang thu và lòng người cũng sang thu (tâm hồn con người như đồng điệu, hòa nhịp với những biến chuyển của thiên nhiên, đất trời bước sang mùa thu).
- "Sang thu" còn mang nghĩa ẩn dụ: bước sang một giai đoạn mới của cuộc đời con người: giai đoạn tuổi trung niên. Điều đó góp phần lý giải những lưu luyến, bịn rịn của tam hồn con người với mùa hạ (sự sôi nổi, những khao khát của tuổi trẻ) đang đi qua.
Bài thơ là cảm nhận tinh tế trước những dấu hiệu giao mùa từ hạ sang thu.
Bài thơ cho em những rung động man mác, bâng khuâng trước khoảnh khắc giao mùa tuyệt đẹp, trước những biến chuyển kì diệu của thiên nhiên: hương ổi, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã và đặc biệt là hình ảnh đám mây mùa hạ "vắt nửa mình sang thu".
Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Các nhà thơ đều có những khám phá, phát hiện riêng về mùa thu. Nhưng ít có nhà thơ nào lại có những cảm nhận tinh tế về bước chuyển mình từ hạ sang thu như nhà thơ Hữu Thỉnh trong bài “Sang thu” . Chính cảm xúc ấy , cái tinh tế , cái dịu dàng trong tâm hồn của nhà thơ trung thành đó đã được bộc lộ từ những khoảnh khắc sâu thẳm nhất trong tâm hồn của ôn qua khổ thơ cuối của bài thưo Sang Thu:
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi."
Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”. Ngay từ nhan đề của bài thơ đã gợi cho người đọc về khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên, và còn đâu đó ẩn dấu khoảnh khắc giao mùa của đời người. Khổ thơ cuối cùng thể hiện rõ hơn nữa sự tinh tế của tác giả trong việc khám phá những biến chuyển của đất trời từ cuối hạ sang thu:
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa"
Hữu Thỉnh sử dụng linh hoạt phép đối “vẫn còn – vơi dần” , “nắng – mưa” gợi sự vận động ngược chiều của các hiện tượng thiên nhiên tiêu biểu cho hai mùa. Những cơn mưa mùa hè đã vơi dần, bớt dần; nắng cũng không còn chói gắt, làm người ta lóa mắt nữa mà đã là ánh nắng mùa thu dịu nhẹ như màu mật ong , dịu nhẹ mà cũng rất ấm áp . Nó ẩn sâu trong suy nghĩ của những độc giả một nguồn suy tư tưởng như là hưũ hạn nhưng nó lại trải dài cả cuộc đời , tuổi thơ mang đến những trải nghiệm và nó đồng thời cũng tạo ra những phép màu kì niệm , điểm son cho mỗi tâm hồn con người . Điều đó đã tạo lên một Hữu Thỉnh chữ tình sâu sắc .
Tín hiệu thu về đã rõ nét hơn bao giờ hết. Cái đặc sắc, tinh nhạy của Hữu Thỉnh còn được thể trong cách ông sắp xếp từ ngữ giảm dần về mức độ: vẫn còn – vơi – bớt cho thấy sự nhạt dần của mùa hạ, và mùa thu mỗi ngày lại đậm nét hơn. Hai câu thơ cuối thể hiện những chiêm nghiệm, suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, con người của tác giả:
"Sấm cũng bớt bất ngờ
Bên hàng cây đứng tuổi"
Câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trước hết về ý nghĩa tả thực: sấm là hiện tượng tự nhiên, thường là dấu hiệu của những cơn mưa rào mùa hạ. Sang thu tiếng sấm cũng trở nên nhỏ hơn, không còn đủ sức lay động những hàng cây đã trải qua bao mùa thay lá nữa.
Bên cạnh đó tiếng sấm còn để chỉ những biến động bất thường của cuộc đời, những gian nan, thử thách mà mỗi chúng ta phải trải qua. Tương ứng với nghĩa biểu tượng của “sấm” , “hàng cây đứng tuổi” là biểu trưng cho những con người trưởng thành, đã trải qua biết bao sóng gió, giông tố trong cuộc đời. Bởi vậy, dù có thêm những bất thường, biến động cũng không dễ dàng khiến họ lung lay, gục ngã; họ trở nên bình tĩnh, ung dung hơn trước những biến cố, thăng trầm của cuộc sống.
Sang Thu - Tập thơ quê hương , một tập thơ mà mỗi chũng ta những con người xứ Kinh Bắc sinh ra và lớn lên - tạo dựng và phát triển những giá trị tinh thần , tuổi thơ chính là mọt trong số đó . Mỗi chúng ta đang ở đây nghe và cảm nhận những dòng cảm xúc , chắc cũng đã từng nhắc đến tuổi thơ - tình yêu tuổi trẻ .
Bằng giác quan nhạy bén, Hữu Thỉnh đã xuất sắc ghi lại khoảnh khắc giao mùa của đất trời từ hạ sang thu. Tái hiện bức tranh đẹp đẽ nhiều hương sắc, nhiều phong vị rất đặc trưng của đất Bắc. Cùng với đó là thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, ngôn ngữ mộc mạc giản dị mà cũng vô cùng sâu sắc đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Lập dàn bài cho bài văn với đề bài: Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.
Thực hiện theo trình tự các bước:
- Tìm hiểu đề và tìm ý:
+ Tìm hiểu đề: Vấn đề nghị luận là gì? (khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh). Yêu cầu (mệnh lệnh) làm gì? (phân tích).
+ Tìm ý: Nội dung cảm xúc của bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh là gì? Nội dung cảm xúc của khổ thơ đầu bài thơ này là gì? Cảm xúc của nhà thơ được gợi lên từ hương vị, đặc điểm gì của thiên nhiên? Khổ thơ có gì đặc sắc về hình ảnh thơ, ngôn từ?
- Lập dàn bài theo bố cục 3 phần: Chú ý xây dựng các luận điểm chính và chứng minh bằng những biểu hiện cụ thể trong khổ thơ.
Ở phần Thân bài, có thể triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:
+ Cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng.
+ Cảm nhận tinh tế về hương vị: hương ổi phả vào trong gió se.
+ Hình ảnh sương đầu thu, nhẹ nhàng giăng mắc.
+ Hình ảnh thơ độc đáo được tạo nên bởi những từ ngữ giàu sức gợi cảm: bỗng, phả vào, gió se, chùng chình, hình như.
Khổ một của bài thơ “Sang thu” đã thể hiện thành công tín hiệu thu về và cảm xúc của nhà thơ Hữu Thỉnh. Mở đầu khổ một, ông viết:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”.
Ở đây, “hương ổi” là mùi ổi chín trong các vườn cây, đây là tín hiệu thu về vừa quen thuộc vừa mới mẻ, vừa gần mà lạ (được cảm nhận bằng khứu giác). Động từ “phả” có nghĩa là toả vào, trộn lẫn, thể hiện hương ổi đang ở độ đậm nhất, sánh lại, thơm nồng nàn hoà quyện vào trong gió, lan toả khắp khu vườn. Và Hữu Thỉnh đã biến cái vô hình thành cái hữu hình, ta như cảm nhận được sự vận động nhẹ nhàng của gió đưa hương. Ông cảm nhận tín hiệu thu về không chỉ bằng khứu giác mà còn cảm nhận bằng xúc giác. “Gió se” là gió se se lạnh, man mát, thoang thoảng đặc trưng của mùa thu. Trước tín hiệu “hương ổi”, “gió se”, nhà thơ đã bộc lộ sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng và bất ngờ qua từ “bỗng”. Hơn nữa, ông viết tiếp:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
Với hình ảnh “sương”, thi sĩ dùng biện pháp nhân hoá qua từ “chùng chình” để cho thấy làn sương như cố ý đi chậm lại, quấn quýt bên ngõ xóm, vẫn lưu luyến mùa hạ đang dần qua, cũng giống như con người vẫn còn nhiều vương vấn, chưa muốn sang thu của cuộc đời (được cảm nhận bằng thị giác). Từ “ngõ” được hiểu theo nghĩa tả thực là đường làng ngõ xóm, còn theo nghĩa ẩn dụ là cửa ngõ của thời gian giữa hai mùa: hạ và thu. Thành phần tình thái “hình như” thể hiện sự mơ hồ, không rõ ràng của tác giả. Nhà thơ hơi bối rối, dường như còn có chút gì đó chưa thật, chưa chắc chắn trong cảm nhận. Qua đó, ta thấy mùa thu còn rất nhạt, chỉ vừa mới chớm, mùa hạ còn đậm. Ôi! Khổ thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cảm nhận của thi nhân trước thời khắc giao mùa của thiên nhiên đất trời. Tóm lại, bằng việc sử dụng nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ, thành phần biệt lập, tính từ…, cảm nhận tín hiệu thu về của nhà thơ trong không gian gần và hẹp đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Trong phạm vi khổ một bài thơ "Sang thu", Hữu Thỉnh đã viết:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".
Chỉ qua hai câu thơ đầu của khổ, với việc sử dụng từ chỉ cảm xúc như "bỗng" cộng với động từ mạnh "phả" và hình ảnh "gió se", tác giả đã cho người đọc thấy được cảm xúc ngỡ ngàng của mình khi nhận ra mùa thu đã về qua các dấu hiệu của mùa thu. Dấu hiệu đầu tiên của mùa thu đã được tác giả thể hiện bằng sự bất ngờ khi nhận ra hương ổi bằng khứu giác, mà ở đây hương ổi ấy chính là một nét đặc trưng và bình dị của vùng Đồng bằng sông Hồng. Tiếp đến chính là hình ảnh "ngọn gió se" của mùa thu thật đặc trưng và thú vị làm sao (1). Được cảm nhận bằng xúc giác, tác giả ngoài ra còn dùng động từ mạnh "phả" để gợi nên sự thơm nồng, mạnh mẽ của hương ổi và sự vận động của gió đưa hương. Không chỉ vậy, ngoài ra tác giả còn sử dụng từ láy và phép nhân hóa với làn sương khiến cho làn sương như có tâm hồn mà xao xuyến, khiến cho làn sương như có tâm hồn mà xao xuyến trước ngưỡng cửa mùa thu. Từ đó, tác giả đã kết luận:
"Hình như thu đã về".
Với việc sử dụng thành phần tình thái "hình như" cùng cụm từ "đã về", tác giả đã thể hiện một cảm xúc mong manh, mơ hồ và đồng thời cũng rất quen thuộc, gần gũi mỗi khi đến - gợi nên sự bâng khuâng, xao xuyến của lòng người. Tác giả không thể hiện cảm xúc rõ ràng về sự hiện diện của mùa thu như là để cho người đọc thấy rõ về sự chuyển giao giữa mùa hạ và mùa thu (2). Như vậy, chỉ trong khổ một của bài thơ, tác giả Hữu Thỉnh đã khắc họa rõ nét cảm xúc của mình những tín hiệu thu về trong không gian gần và hẹp mới thật tinh tế biết bao.
*Chú thích:
(1): Thành phần cảm thán
(2): Câu phủ định
Sang thu là những vần thơ hay nhất đời thơ Hữu Thỉnh và bài thơ đã tạo được ấn tượng, dấu hiệu đầu tiên về mùa thu ngay ở khổ thơ đầu:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về."
Mùa thu là mùa đẹp nhất, là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca nhân loại. Hữu Thỉnh cũng góp một mảnh ghép về mùa thu bằng những hình ảnh thơ độc đáo, đó là hương ổi. Hương ổi mang tới cho mùa thu sự dịu nhẹ, là hương vị mang nét đặc trưng của làng quê Bắc Bộ. Chữ "bỗng" diễn tả trạng thái đột ngột, bất ngờ, niềm vui, sự ngạc nhiên của tác giả khi nhận ra dấu hiệu của mùa thu. Động từ "phả" khiến câu thơ như lan tỏa hương vị nồng nàn của hương ổi trong không gian. Không chỉ vậy, những tín hiệu báo thu sang tiếp tục được cảm nhận qua hình ảnh sương thu. Phép nhân hóa "sương chùng chình" đã diễn tả sự ngập ngừng, vấn vương, có gì như bâng khuâng, nửa muốn đi, nửa không muốn rời bỏ của làn sương. Hai chữ "hình như" là phỏng đoán, nửa tin nửa ngờ. Nhà thơ cảm nhận bước đi của mùa thu trong khoảnh khắc chớm thu không chỉ bằng khứu giác (nhận ra hương ổi), không chỉ bằng xúc giác (gió se), bằng thị giác (sương chùng chình) mà còn bằng tất cả sự rung động của tâm hồn, linh hồn. Bâng khuâng, rạo rực, rung động và xôn xao. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện khá tinh tế, đầy chất thơ.
Câu chủ đề: Câu "Sang thu là... khổ thơ đầu".
Câu ghép: là câu được gạch chân.
Sang thu là những vần thơ hay nhất đời thơ Hữu Thỉnh và bài thơ đã tạo được ấn tượng, dấu hiệu đầu tiên về mùa thu ngay ở khổ thơ đầu:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về."
Mùa thu là mùa đẹp nhất, là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca nhân loại. Hữu Thỉnh cũng góp một mảnh ghép về mùa thu bằng những hình ảnh thơ độc đáo, đó là hương ổi. Hương ổi mang tới cho mùa thu sự dịu nhẹ, là hương vị mang nét đặc trưng của làng quê Bắc Bộ. Chữ "bỗng" diễn tả trạng thái đột ngột, bất ngờ, niềm vui, sự ngạc nhiên của tác giả khi nhận ra dấu hiệu của mùa thu. Động từ "phả" khiến câu thơ như lan tỏa hương vị nồng nàn của hương ổi trong không gian. Không chỉ vậy, những tín hiệu báo thu sang tiếp tục được cảm nhận qua hình ảnh sương thu. Phép nhân hóa "sương chùng chình" đã diễn tả sự ngập ngừng, vấn vương, có gì như bâng khuâng, nửa muốn đi, nửa không muốn rời bỏ của làn sương. Hai chữ "hình như" là phỏng đoán, nửa tin nửa ngờ. Nhà thơ cảm nhận bước đi của mùa thu trong khoảnh khắc chớm thu không chỉ bằng khứu giác (nhận ra hương ổi), không chỉ bằng xúc giác (gió se), bằng thị giác (sương chùng chình) mà còn bằng tất cả sự rung động của tâm hồn, linh hồn. Bâng khuâng, rạo rực, rung động và xôn xao. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện khá tinh tế, đầy chất thơ.
Câu chủ đề: Câu "Sang thu là... khổ thơ đầu".
Câu ghép: là câu được gạch chân.
Tham khảo nha em:
Hữu Thỉnh là một nhà thơ viết nhiều và hay viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên. "Sang thu" là một tác phẩm tiêu biểu viết về mùa thu của ông. Bài thơ không chỉ có hình ảnh thiên nhiên sang thu mà còn có bóng dáng con người trước mùa thu cuộc đời.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về".
Sự biến đổi đất trời lúc sang thu hoặc tín hiệu sang thu (làn gió se) mang theo "hương ổi" nhà thơ ngỡ ngàng bâng khuâng xao xuyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa ("bỗng", "hình như").
Những biến chuyển trong không gian lúc sang thu được nhà thơ cảm nhận bằng nhiều giác quan và sự rung động tinh tế. "Hương ổi" lan vào không gian phả vào gió se, động từ "phả" là nét đặc sắc của hương ổi, mùi hương ổi lan tỏa vào trong gió với một không gian rộng. "Sương đầu thu" giăng mắc nhẹ nhàng chuyển động chầm chậm nơi ngõ xóm, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa rất đặc sắc qua động từ "chùng chình". "Dòng sông" trôi thanh thản gợi vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên; những cánh chim bắt đầu vội vã, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật đối và các từ láy đã mở ra một không gian cao rộng, khoáng đãng.
Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ "vắt nửa mình sang thu" đây là hình ảnh sáng tạo, độc đáo và tạo nét riêng cho tác phẩm. Có lẽ mùa thu đang đến ngõ xóm báo hiệu mùa thu đang đến rất gần. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những cơn mưa cũng vơi bớt, tiếng sấm cũng không còn bất ngờ. Tác giả sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế qua từ "vẫn còn bao nhiêu", "vơi dần", "cũng bớt". Hình ảnh sương thu chùng chình nơi ngõ xóm gợi liên tưởng con người bâng khuâng xao xuyến bịn rịn trước mùa thu của cuộc đời.
Lúc sang thu bớt đi tiếng sấm bất ngờ. Cũng có thể hiểu hình ảnh hàng cây đứng tuổi không bị bất ngờ, giật mình bởi tiếng sấm nữa. Với hình ảnh có giá trị tả thực về hình tượng thiên nhiên này nhà thơ muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước những vang động của cuộc đời.
Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, cảm nhận tinh tế sâu sắc, hình ảnh thơ đẹp, ngôn ngữ tinh tế giọng thơ êm đềm. Sang thu thể hiện cảm nhận tinh tế của những chuyển biến nhẹ nhàng của khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu của miền Bắc. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên gắn bó với quê hương của tác giả và triết lí về con người và cuộc đời.
Sang thu là một bài thơ đặc sắc viết về thời điểm chuyển mùa từ cuối hạ sang đầu thu. Bài thơ vừa thể hiện tài năng sự cảm nhận tinh tế của tình yêu đồng thời thể hiện tình cảm của nhà thơ với thiên nhiên mùa thu. Đọc bài thơ chúng ta càng yêu hơn mùa thu thiết tha nồng hậu của quê nhà.
tham khảo\
1. Phân tích đề
Yêu cầu: phân tích nội dung khổ thơ đầu bài Sang thu.
Đối tượng, phạm vi đề bài: các câu thơ, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong khổ 1 bài thơ Sang thu.
Phương pháp lập luận chính: Phân tích.
2. Hệ thống luận điểm
Luận điểm 1: Thiên nhiên sang thu được cảm nhận từ những gì vô hình.
Luận điểm 2: Cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu.
3. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
Giới thiệu về tác giả Hữu Thỉnh: Hữu Thỉnh (1942) là một nhà thơ viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên.
Giới thiệu bài thơ Sang thu: Sang thu (1977) là một bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh viết về mùa thu, thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Dẫn dắt vấn đề và trích dẫn khổ thơ đầu bài Sang thu: Khổ thơ đầu bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khắc giao mùa.
b) Thân bài: Phân tích khổ đầu bài Sang thu
* Luận điểm 1: Thiên nhiên sang thu được cảm nhận từ những gì vô hình.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ"
“bỗng”: sự ngạc nhiên, bất ngờ → đánh động mọi giác quan để nhận ra sự chuyển mình của trời đất.
“Hương ổi”: làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.
“phả”: động từ có nghĩa là tỏa vào, trộn lẫn → gợi mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, hòa vào trong gió heo may, lan tỏa khắp không gian.
"Sương chùng chình": những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm. → Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn
→ Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ cùng với hương ổi phả vào trong gió se là những hình ảnh mùa thu ở thôn quê êm ả thanh bình.
* Luận điểm 2: Cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu.
Tất cả các từ: “bỗng, phả, hình như” đều bộc lộ rõ tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng trước những phát hiện thú vị báo thu về:
"Hình như thu đã về"
"Hình như": một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng.
→ Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá. Câu hỏi như là một lời thông báo nhẹ nhàng rằng thu đã đến với tất cả chúng ta.
→ Tác giả cảm nhận tín hiệu mùa thu về ở không gian gần bằng nhiều giác quan và sự rung cảm tinh tế.
→ Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những tín hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện (“hương ổi”, “gió se” và “sương”).
* Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ
Khả năng quan sát tinh tế
Ngòi bút miêu tả với những nét vẽ gợi tả độc đáo
Thủ pháp nhân hoá
c) Kết bài
Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ đầu Sang thu.
Cảm nhận của em về khổ thơ.
4. Kiến thức mở rộng
- Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
Năm 1977, ông tham gia trại viết văn quân đội ở một làng ngoại ô Hà Nội (nay là Khương Hạ, Thanh Xuân, Hà Nội).
Đất nước ta lúc này vừa trải qua chiến tranh, cuộc sống thanh bình đã trở lại.
Trong cái mơ hồ phảng phất gió thu và lá thu đang ngả màu, nhà thơ đã trèo lên cây ổi chín vàng trong cả một vườn ổi bạt ngàn ở nơi này. Bài thơ bật lên từ đó, ngay khi nhà thơ còn ngồi trên cây ổi, những vần thơ được “được làm trong đầu” chứ chưa đụng chạm gì đến giấy bút.
- Về “chìa khóa” của bài thơ, nhà thơ tâm sự:
“Cuối bài thơ tôi đề là “Thu 1977”. Đây là chìa khóa của bài thơ mà rất nhiều người giảng về bài thơ này không hiểu hoặc không chú ý. Nếu chú ý thì sẽ hiểu thêm được rằng đây là một trong những mùa Thu đầu tiên của người lính vừa bước ra khỏi chiến tranh. Nếu như họ là lính trong thời chiến họ mới hiểu được rằng đôi lúc chúng tôi đã rất mong trên đầu không có tiếng máy bay dù chỉ để được đi tắm giặt, đi hái rau hoặc tranh thủ đọc vài trang sách, mà cũng không có. Suốt ngày người lính trong thời chiến phải đối diện với tiếng súng nổ, tiếng bom rơi và tiếng động cơ phản lực… Chính vì vậy mà có lúc nào đó không phải nghe những âm thanh ấy thì quả là quý giá vô cùng”.
REFER
“Sang thu” là một bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Khổ thơ mở đầu bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
Từ “bỗng” đã thể hiện được sự ngạc nhiên, bất ngờ của tác giả. Chữ “bỗng” được tác giả đặt ở đầu bài thơ như để đánh động mọi giác quan, mọi cảm nhận của độc giả để nhận ra sự chuyển mình của trời đất. Và vào khoảnh khắc ấy hương ổi vừa ngọt ngào vừa nồng nàn đã đánh thức giác quan của thi nhân. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào thì mùi hương của nó mới đủ “phả vào trong gió se”.
Mùi hương ấy đã lan tỏa trong cái rét nhè nhẹ của đất trời, tạo nên một hương ổi ngọt ngào, thanh mát. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. Chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.
Phân tích khổ thơ đầu tiên trong bài thơ Sang thu của Hữu ThỉnhTiếp nối những tín hiệu của mùa thu là hình ảnh: “sương chùng chình qua ngõ”. Sương trong câu thơ của Hữu Thỉnh được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động chậm rãi. Từ láy “chùng chình” khiến người đọc liên tưởng đến sự thong thả, yên bình trong cái tĩnh lặng của thiên nhiên. Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ cùng với hương ổi phả vào trong gió se là những hình ảnh mùa thu ở thôn quê êm ả thanh bình.
Như vậy, thu đến đã được cảm nhận bằng cả khứu giác và thị giác. Câu hỏi có vẻ dè dặt: “Hình như thu đã về” nhưng thật ra là một lời thông báo rất nhẹ nhàng rằng thu đã đến với tất cả chúng ta. Câu thơ không phải là một lời khẳng định hay một tiếng reo vui mà nó mang chút gì đó thâm trầm, kín đáo của người dân thôn quê.
Chỉ bốn câu thơ nhưng lại để trong lòng người đọc biết bao rung động. Bốn câu thơ còn chứa đựng trong đó là bức tranh thiên nhiên thôn quê khi thu về. Điều này đã khiến đoạn thơ càng trở nên gần gũi, thân thuộc.
Bằng nét vẽ gợi tả, Hữu Thỉnh đã giúp người đọc cảm nhận được sự chuyển mình của mùa thu. Đồng thời qua đây người đọc cũng thấy được khả năng quan sát tinh tế, ngòi bút miêu tả độc đáo của tác giả. Chính điều đó đã góp phần làm nên thành công và tạo chỗ đứng trong lòng độc giả.