thiếu iot sẽ bị bị sao vậy
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Khi cơ thể thiếu i-ốt, tuyến giáp phải làm việc nhiều hơn để tổng hợp thêm nội tiết tố giáp trạng làm cho tuyến giáp to lên, gây ra bệnh bướu cổ. Bướu cổ là một cách thích nghi của cơ thể để bù đắp lại một phần thiếu i-ốt. Khi có kích thước to nó chèn ép đường thở, đường ǎn uống gây ra các vấn đề nguy hại cho sức khỏe.
Thiếu i-ốt ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai rất nguy hiểm, có thể gây ra sảy thai tự nhiên, thai chết lưu hoặc đẻ non. Đối với trẻ sơ sinh, khi thiếu i-ốt nặng có thể bị đần độn hay tổn thương não vĩnh viễn. Trẻ sơ sinh có thể bị các khuyết tật bẩm sinh như điếc, câm, liệt tay hoặc chân, nói ngọng, mắt lác. Các hậu quả đó sẽ tồn tại vĩnh viễn trong cả cuộc đời, hiện nay y học chưa chữa được.
Thiếu i-ốt trong thời kỳ niên thiếu gây ra bướu cổ, chậm lớn, nói ngọng, chậm phát triển trí tuệ, nghễnh ngãng. Trong một số trường hợp nặng, trẻ có thể bị liệt cứng hai chân, đần độn. Trẻ bị thiếu i-ốt ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập. Thiếu i-ốt ở người lớn gây ra bướu cổ với các biến chứng của nó như không linh hoạt và giảm khả nǎng lao động, mệt mỏi, hạn chế sự phát triển kinh tế, xã hội.
Tất cả các rối loạn do thiếu i-ốt kể cả bệnh đần độn hoàn toàn có thể phòng ngừa được bằng cách bổ sung một lượng i-ốt rất nhỏ vào bữa ǎn mỗi ngày. Những thức ǎn hải sản như cá, sò hay rong biển là nguồn cung cấp giàu iốt. Hai biện pháp chủ yếu đang được áp dụng hiện nay trong phòng chống bệnh là:
- Sử dụng muối i-ốt trong bữa ǎn hằng ngày. Hiện nay ở nước ta, nhà nước đã quy định các loại muối ǎn đều được tǎng cường i-ốt.
- Ở một số vùng có tỷ lệ bướu cổ cao hơn 30% thì dùng dầu iode để hạ nhanh tỷ lệ bướu cổ, trong đó các đối tượng ưu tiên là trẻ em dưới 15 tuổi và phụ nữ từ 15-45 tuổi.
Tóm lại, các rối loạn do thiếu i-ốt như cường giáp hay suy tuyến giáp có thể phòng ngừa được nếu mỗi ngày ǎn 10 gam muối i-ốt.
Khi cơ thể thiếu i-ốt, tuyến giáp phải làm việc nhiều hơn để tổng hợp thêm nội tiết tố giáp trạng làm cho tuyến giáp to lên, gây ra bệnh bướu cổ. Bướu cổ là một cách thích nghi của cơ thể để bù đắp lại một phần thiếu i-ốt. Khi có kích thước to nó chèn ép đường thở, đường ǎn uống gây ra các vấn đề nguy hại cho sức khỏe. Vì sao thiếu iot bị bướu cổ?
Thiếu i-ốt ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai rất nguy hiểm, có thể gây ra sảy thai tự nhiên, thai chết lưu hoặc đẻ non. Đối với trẻ sơ sinh, khi thiếu i-ốt nặng có thể bị đần độn hay tổn thương não vĩnh viễn. Trẻ sơ sinh có thể bị các khuyết tật bẩm sinh như điếc, câm, liệt tay hoặc chân, nói ngọng, mắt lác. Các hậu quả đó sẽ tồn tại vĩnh viễn trong cả cuộc đời, hiện nay y học chưa chữa được.
Vì sao thiếu iot bị bướu cổ? Có thể nguyên nhân dẫn đến bướu cổ chủ yếu do thiếu hụt i-ốt trong cơ thể gây ra nhưng không phải lúc nào cũng cứ bổ sung i-ốt là bệnh sẽ khỏi. Iốt là một vi chất dinh dưỡng rất cần thiết cho mỗi chúng ta.
Hơn 75% i-ốt trong cơ thể người tập trung ở tuyến giáp để tổng hợp nên các hormon tuyến giáp T3 (tri-iodothyronin) và T4 (thyroxin). T3 và T4 có vai trò quan trọng trong sự phát triển bình thường của cơ thể và chuyển hóa năng lượng. Thiếu iốt sẽ làm giảm tổng hợp hormon tuyến giáp, gây ra nhiều các dị tật bẩm sinh và các rối loạn khác nhau trong cơ thể gọi chung là các rối loạn do thiếu iốt.
Bướu cổ thực chất là căn bệnh rất khó chữa vì tác nhân của nó liên quan đến hệ thần kinh. Bình thường, cơ thể hấp thu một lượng i-ốt mỗi ngày qua thức ăn. Bệnh bướu cổ ăn gì? Vì một lý do nào đó, tuyến giáp không nhận được đầy đủ hàm lượng i-ốt dẫn đến hiện tượng sự bài tiết sẽ tụt giảm. Vì nguyên nhân này, tuyến giáp phải tăng thêm kích thích để sản xuất hormon nên dẫn đến tình trạng sưng to, tạo nên bướu ở cổ.
1) Là do thiếu thành phần tiểu cầu của cơ thể
2) Ta thiếu hồng cầu có trong máu
Vì như vậy gà mới đủ dưỡng chất, sẽ khỏe mạnh, ít bị bệnh, lớn nhanh và sinh sản tốt
Tham khảo:
Hormon T3 và T4 có nhiệm vụ chính là kích thích tăng trưởng của các tế bào trong não. Việc thiếu hụt iốt sẽ khiến cơ thể không tổng hợp được T3 và T4. Từ đó ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển não của bé trong những năm đầu đời.
1- Thiếu sinh tố A. Nhu cầu sinh tố A mỗi ngày là 900mcg.
Thiếu sinh tố A sẽ đưa đến giảm thị giác, mờ mắt ban đêm, giác mạc khô và đục, răng yếu mau hư, da khô có vẩy, tóc khô giòn, cơ thể dễ bị nhiễm trùng, xương chậm phát triển.
Tuy nhiên, tình trạng thiếu sinh tố A ít khi xẩy ra vì thực phẩm ăn vào hàng ngày có rất nhiều sinh tố này. Sinh tố A có nhiều trong dầu gan cá, gan và thận động vật, sữa, lòng đỏ trứng gà các loại rau trái cây có lá và vỏ mầu vàng...
2- Thiếu sinh tố D. Thiếu sinh tố D sẽ làm giảm sự hấp thụ calcium và phosphore ở ruột với hậu quả là xương và răng mềm và biến dạng.
Trẻ em thiếu sinh tố D sẽ bị bệnh còi xương: xương ngực nhô về phía trước, xương sọ chậm khép kín, xương sống cong, răng sữa chậm mọc, răng khôn mỏng manh, men răng mau hư.
Ngoài ra, thiếu sinh tố D cũng đưa đến chứng co cứng và giựt các cơ (tetany), đặc biệt là cơ mặt, bàn tay, bàn chân.. Chứng này cũng xẩy ra trong trường hợp calcium huyết xuống thấp.
Nhu cầu sinh tố D hàng ngày vào khoảng 5mcg.
Thực phẩm cung cấp rất ít sinh tố D, nhưng thiên nhiên đã giúp cơ thể tạo ra sinh tố D qua tác dụng của tia nắng mặt trời lên da. Mỗi ngày ta chỉ cần phơi nắng khoảng mười phút, hai ba lần mỗi tuần là có đủ số sinh tố D cần thiết.
Sinh tố D có nhiều trong các loại cá béo như cá trích, cá thu, cá hồi, cá ngừ... Gan, lòng đỏ trứng, bơ, sữa có một ít sinh tố D. Rau và trái cây hầu như không có sinh tố này.
3- Sinh tố E. Dấu hiệu do thiếu sinh tố E ít khi thấy ở con người, vì sinh tố này có trong mọi loại thực phẩm. Ngoài ra, sinh tố được tồn trữ trong một thời gian khá lâu trong tất cả các mô bào. Sinh tố E giúp duy trì sự vẹn toàn của tế bào máu, bảo vệ tế bào phổi với ô nhiễm và giúp các tế bào này hô hấp hiệu quả hơn. Trái với sự tin tưởng của nhiều người, sinh tố E không tăng cường khả năng tình dục của nam giới.
Trẻ sơ sinh, nhất là khi sinh thiếu tháng, không có đủ sinh tố E sẽ có một số dấu hiệu như phù nê, vết thương trên da, tế bào máu bất bình thường..
Mỗi ngày cơ thể cần khoảng 8mg sinh tố E. Sinh tố E có nhiều trong rau salad và các loại dầu thực vật ngoại trừ dầu dừa, mầm lúa mì, bắp, các loại hạt có vỏ cứng như hạt dưa, hạt bí, trong măng tây và các loại rau có lá màu lục... Thực phẩm động vật có rất ít sinh tố E.
4- Sinh tố K. Sinh tố K giúp cơ thể chống chẩy máu khi bị thương tích trên da thịt hoặc xuất huyết tại các cơ quan nội tạng. Sinh tố này cũng giúp gan tổng hợp các yếu tố đông máu, mà khi thiếu, máu sẽ ở trong tình trạng liên tục loãng.
Khi thiếu sinh tố K, máu sẽ không đông, vết thương chẩy máu liên tục. Các vi khuẩn trong ruột tạo ra 80% số lượng sinh tố K cần thiết, phần còn lại do thực phẩm cung cấp.
Sinh tố này có nhiều trong trà xanh, củ cải, đậu nành, dầu thực vật, gan, lòng đỏ trứng...
5- Sinh tố B1. Thiếu sinh tố B1, con người trở nên dễ mệt mỏi, kém tập trung, ăn không ngon, đau bụng, buồn nôn, đầu ngón tay tê dại, nhịp tim nhanh, mất cảm giác vì viêm dây thần kinh ngoại vi, sưng phù cơ thể...
Sinh tố B1 (hoặc thiamine) có nhiều trong mầm lúa mì, mầm đậu nành, hạt hướng dương, gạo lức, lòng đỏ trứng, gan động vật, thịt nạc, cá...
Nhu cầu hàng ngày của cơ thể với sinh tố B1 là từ 1-3mg.
6- Sinh tố B2. Các dấu hiệu do thiếu sinh tố B2 gồm có: cơ thể mệt mỏi, vết thương chậm lành, thủy tinh thể đục, mắt cay không chịu được ánh sáng mạnh, lưỡi đau, môi nứt nẻ, da khô, tóc dễ gẫy, móng tay chân giòn...
B2 có nhiều trong sữa, phó mát, thịt nạc, tim gan thận động vật, trứng, hạt ngũ cốc, rau có lá mầu lục... Mỗi ngày cơ thể cần 1,5mg B2.
7- Sinh tố B3. Khi thiếu sinh tố B3 hoặc Niacin, các triệu chứng sau đây có thể xẩy ra: giảm sinh lực, mất ngủ, hay quên, tâm thần căng thẳng, lo âu, tính tình gắt gỏng; nhức đầu, sưng và chẩy máu ở nuớu răng, viêm ngứa trên da... Thiếu trầm trọng có thể đưa tới bệnh Pellagra với viêm da, rối loạn thần kinh, rối loạn tiêu hóa, mất ngủ, giảm cân, giảm trí nhớ...
Sinh tố này có nhiều trong các thực phẩm giầu chất đạm như gan, thận, thịt nạc, cá, nấm, các loại hạt, sữa, ngũ cốc, rau, trứng... Nhu cầu hàng ngày từ 5 tới 17mg sinh tố B3.
8- Sinh tố B6. Thiếu sinh tố B6 (Pyridoxine) có những biểu hiện như giảm sinh lực, ăn mất ngon, mất ký, ngủ mê, buồn rầu, tinh thần dễ bị kích động, cơ co rút và yếu, tê đầu ngón tay, da khô, thiếu hồng cầu, da chung quanh mắt, mũi, miệng trở nên nhờn và đóng vẩy,...
Trẻ em thiếu sinh tố này thường hay lên cơn động kinh, bẳn tính...
B6 có nhiều trong cám gạo và lúa mì, hạt hướng dương, có ít hơn trong trái chuối, trái bơ, cá, thận, gan, thịt gà, đậu nành... Nhu cầu sinh tố B6 khoảng 2mg/ngày.
9- Sinh tố B12. Mỗi ngày, nhu cầu sinh tố B12 là từ 2 đến 4mcg. Nếu ăn 100gram thịt bò là đã có đủ số lượng B12 này.
Thiếu sinh tố B12 thường thấy ở người chỉ ăn rau trái cây hoặc những người không sản xuất được yếu tố nội tại tạo sinh tố B12 vì bị cắt bỏ bao tử, thiếu máu ác tính, nhiễm ký sinh trùng Dấu hiệu thiếu sinh tố B12 gồm có: lưỡi viêm đỏ, cơ thể yếu đuối, ăn không ngon, da vàng nhợt, khó thở, giảm cân, đi đứng không vững, rối loạn thần kinh, tính tình cáu kỉnh, buồn rầu..
Gan là cơ quan chứa nhiều sinh tố B12 nhất rồi đến thận, tim, thịt bò, cá, lòng đỏ trứng, sữa, sữa chua, phó mát, sò, cua... Thực phẩm thực vật không có sinh tố B12.
10- Sinh tố C. Hiện nay, tình trạng thiếu sinh tố C trong cơ thể ít khi xảy ra, vì có rất nhiều thực phẩm cũng như nước uống chứa sinh tố này. Tuy nhiên, khi thiếu, các dấu hiệu sau đây sẽ xuất hiện: giảm cân, mệt mỏi, kém tập trung, đau nhức khớp và cơ, khó thở, sưng và chẩy máu nướu, chẩy máu dưới da, vết thương lâu lành. Thiếu trầm trọng sinh tố C sẽ đưa tới bệnh scurvy với rụng răng, mềm xương, mạch máu dễ vỡ, chẩy máu, thiếu máu, suy tim, tử vong...
Sinh tố C có nhiều trong các loại trái chua như chanh, cam, dâu, cà chua..hoặc trong súp-lơ, khoai lang, khoai tây...Thịt cá chứa rất ít sinh tố C.
Mỗi ngày nên tiêu thụ khoảng 60mg sinh tố C.
Một người bị triệu chứng thiếu axit trong dạ dày thì sự tiêu hóa ở ruột non có thể diễn ra như sau:
Môn vị thiếu tín hiệu đóng nên thức ăn sẽ qua môn vị xuống ruột non liên tục và nhanh hơn, thức ăn sẽ không đủ thời gian ngấm đều dịch tiêu hóa của ruột non nên hiệu quả tiêu hóa sẽ thấp.
Tác hại của việc thiếu I ốt
Trẻ em và phụ nữ mang thai là những đối tượng rất dễ bị thiếu Iốt do nhu cầu tăng cao. Thiếu I ốt ở phụ nữ mang thai dễ gây ra sảy thai, thai chết lưu hoặc sinh non. Nếu thiếu I ốt nặng trong giai đoạn mang thai trẻ sinh ra sẽ bị đần độn, câm, điếc và các dị tật bẩm sinh khác.
Thiếu I ốt ở trẻ em sẽ gây chậm phát triển trí tuệ, chậm lớn, nói ngọng, nghễnh ngãng,... Ngoài ra còn gây bướu cổ, thiểu năng tuyến giáp ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và hoạt động của cơ thể, giảm khả năng lao động, mệt mỏi...
Tuy nhiên, mỗi ngày mỗi người chúng ta chỉ cần khoảng 90 đến 200 microgram I ốt vào cơ thể được tính theo “Bảng nhu cầu dinh dưỡng cho người Việt”. I ốt sẽ theo nguồn thức ăn vào ruột, hấp thu vào máu. Nếu lượng I ốt được cung cấp quá nhiều cũng sẽ gây nên hội chứng cường giáp hay gặp nhất là bệnh Basedow, u tuyến giáp, viêm tuyến giáp...