Cách dẫn dắt lời kể của tác giả trong bài văn “Lao xao” theo trình tự nào?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Cách dẫn dắt truyện tự nhiên, từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em đến chuyện các loài chim.
+ Mở đầu bằng tiếng kêu của bồ các để dẫn dắt lời kể, tiếp đó vận dụng cấu trúc đồng dao dân ca để phát triển mạch kể theo cấu trúc dân ca đồng dao để phát triển mạch kể.
Trình tự kể tả các loài chim được nói đến:
- Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú
- Chim ngói, nhạn, bìm bịp
- Diều hâu, chèo bẻo, quạ đen, quạ khoang, cắt.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài viết tham khảo.
- Chỉ ra cách dẫn dắt trong bài được tác giả sử dụng.
Lời giải chi tiết:
Để tô đậm ý tưởng của bài viết, tác giả đã chọn cách dẫn dắt gián tiếp vô cùng khéo léo.
- Tác giả đã giới thiệu khái quát về thế giới nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân, từ đó định hướng nhìn nhận vai trò của nhân vật trong việc thể hiện chủ đề, và sau đó mới khái quát chủ đề của câu chuyện.
- Người viết đã khẳng định sự nhìn nhận sự chi phối của chủ đề với nhân vật, và rút ra kết luận là khẳng định lại ý nghĩa của chủ đề.
Nhà văn dẫn dắt độc giả đi từ những hiểu biết về phong cách nghệ thuật của nhà văn đến việc nắm bắt các biểu hiện sinh động của phong cách đó trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”, kết hợp phân tích tác phẩm với mở rộng bình luận về những giá trị cao quý ở đời nhằm tạo điểm nhấn cho bài viết.
Nhà văn dẫn dắt độc giả đi từ những hiểu biết về phong cách nghệ thuật của nhà văn đến việc nắm bắt các biểu hiện sinh động của phong cách đó trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”, kết hợp phân tích tác phẩm với mở rộng bình luận về những giá trị cao quý ở đời nhằm tạo điểm nhấn cho bài viết.
Bố cục
- Mở bài: từ Dân ta đến lũ cướp nước: Nêu vấn đề nghị luận Tinh thần yêu nước là một truyền thống quý báu của nhân dân ta.
+ Nêu đề tài và luận đề ở câu mở đầu “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”.
+ Tác giả chỉ dùng lí lẽ, giúp người đọc tập trung vào vấn đề, trực tiếp, nhanh gọn.
- Thân bài: Lịch sử ta đến lòng nồng nàn yêu nước: Chứng minh tinh thần yêu nước trong lịch sử và hiện tại.
Tác giả dùng những dẫn chứng tiêu biểu. Cách nêu dẫn chứng rành mạch, sáng tỏ.
+ Nêu ngắn gọn những trang sử anh hùng, sáng ngời tinh thần yêu nước của tổ tiên ta.
+ Dẫn chứng về con người và sự việc tiêu biểu của nhân dân trong thời kì kháng chiến bấy giờ.
-> Phần này có ý nghĩa giáo dục, thuyết phục thiết thực nên tư liệu, từ ngữ, câu văn nhiều hơn, dài hơn.
=> Phần này đúng kiểu nghị luận chứng minh.
- Kết bài: phần còn lại: Nhiệm vụ của Đảng ta trong việc phát huy tinh thần yêu nước đó.
+ Phần này có nhiệm vụ nhắc nhở hành động.
=> Tác giả chỉ dùng lí lẽ ngắn gọn, giúp người đọc, người nghe hiểu sâu vấn đề và làm theo.
=> Bố cục rõ ràng, chặt chẽ.
a) Ghi các phần mở bài, thân bài và kết bài trong bài văn trên :
M : - Mở bài : Từ đầu đến chiếc xe đạp của chú.
- Thân bài: ở xóm vườn đến chú đưa chân đá ngược ra sau . - Nó đá đó.
- Kết bài: đám con nít cười rộ chiếc xe của mình.
b) Ở phần thân bài, chiếc xe đạp được tả theo trình tự như thế nào ?
Tả bao quát về ngoài chiếc xe : là chiếc xe đẹp nhất không có chiếc nào sánh bằng.
- Những đặc điểm nổi bật:
+ Xe màu vàng, hai cánh vành láng bóng, khi ngừng đạp, chiếc xe cứ ro ro thật êm tai.
+ Giữa tay cầm gắn hai con bướm bằng thiếc với hai cánh giữa vàng lấm tấm đỏ, có khi cắm một cành hoa.
- Tình cảm của chú Tư đối với chiếc xe :
+ Bao giờ dừng xe, chú cũng rứt cái giẻ dưới yên, lau sạch sẽ rồi mới bước vào nhà, vào tiệm.
+ Chú âu yếm gọi chiếc xe của mình là con ngựa sắt.
+ Chú dặn bọn trẻ đừng đụng vào chiếc xe .
+ Chủ rất hãnh diện với chiếc xe của mình.
+ Chú gắn lên giữa tay cầm hai con bướm bằng thiếc với hai cánh vàng lấm tấm đỏ, có khi là một cành hoa.
c) Tác giả quan sát chiếc xe đạp bằng những giác quan nào ?
- Bằng mắt : thấy: chiếc xe màu vàng, hai cái vành láng bóng, giữa tay cầm là hai con bướm.
- Bằng tai : Khi ngừng đạp, xe cứ ro ro thật êm tai.
d) Tìm lời kể chuyện xen lẫn lời miêu tả trong bài. Lời kể nói lên điều gì về tình cảm của chú Tư với chiếc xe ?
Lời kể xen lẫn lời tả | Lời kể nói gì về tình cảm của chú Tư với chiếc xe |
Chú gắn hai con bướm bằng thiếc với hai cánh lấm tấm đỏ, có khi chú cắm cả một cành hoa / Bao giờ dừng xe, chú cũng rút cái giẻ dưới yên, lau, phủi sạch sẽ, chú âu yếm gọi chiếc xe của mình là con ngựa sắt/ chú dặn bọn nhỏ: "Coi thì coi, đừng đụng vào con ngựa sắt của tao nghe bây", (chú hãnh diện với chiếc xe của mình). | Lời kể xen lẫn lời miêu tả như những câu trên nói lên tình cảm của chú Tư, với chiếc xe đạp. |
miêu tả tự nhiê, sinh động
sủ dụng phép tu từ
còn một cái cuối tớ không ghi
Tuổi thơ im lặng là một tập hồi kí - tự truyện khá đặc sắc của nhà văn Duy Khán. Đây là một trong những tác phẩm hay viết cho thiếu nhi được dư luận đánh giá cao. Bài văn Lao xao là một đoạn trích từ tập hồi kí - tự truyện ấy.
Ngòi bút nghệ thuật đậm chất văn hoà dân gian và cái nhìn hồn nhiên tuổi thơ của tác giả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên ở làng quê vừa giàu sức sống, vừa hồn hậu và đậm đà tình người.
Bức tranh thiên nhiên ở đây được đặt trong bối cảnh lúc chớm vào mùa hè. Làng quê mùa hè hiện ra tràn ngập một màu xanh hương hoa: cây hoa lan nở hoa trắng xoá, hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ, hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín. Rồi các loài ong đánh nhau, đuổi cả bướm đi để tranh nhau hút mật hoa. Chỉ một vài nét chấm phá rất tinh tế, Duy Khán đa gơi tả được nét đặc trưng của không gian làng quê lúc chớm hè.
Nhà văn không đi sâu vào miêu tả tỉ mỉ, đặc biệt loài chim mà chi phác hoạ một vài nét nổi bật về hình dáng, màu sắc, tiếng kêu hoặc đặc tính: Con bồ các kêu vang lên “các... các ... các; sáo đen, sáo sậu đậu trên lưng trâu hót mừng được mùa; con tu hú kêu to nhất họ, nó kêu tu hú vào mùa tu hú chín, quả hết, nó bay đi đâu biệt; một đàn chim ngói sạt qua rồi bay về hướng mặt trời lặn; nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc chéc”; bìm bịp khoác bộ cánh nâu, suốt đêm ngày rúc trong bụi cây...
Để làm nổi bật lên bức tranh phong phú và sống động về các loài chim, Duy Khánh vừa tả riêng từng loài, vừa tả xen kẽ các loài cùng họ với nhau, phối hợp tả và kể, nhận xét và bình luận. Chẳng hạn như khi tả tiếng kêu của bồ các, tác giả đưa ra một nhận xét ngộ nghĩnh: Cái con này bao giờ cũng vừa bay, vừa kêu cứ như bị ai đuổi đánh.
Hoặc đang kể về sáo đen, sáo sậu, lại chuyến sang kể về con sáo nhà bác Vui. Rồi khi tả về tiếng kêu của con chim bìm bịp, tác giả kết hợp kể về sự tích chim bìm bịp, và nhận xét Khi nó kêu thì một loạt chim ác, chim xấu mới ra mặt...
Cách tả kết hợp với kể, nhận xét, bình luận, tạo nên nét đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút miêu tả Duy Khánh, đem lại cho đoạn văn sự hấp dẫn riêng và ấn tượng rất khó quên.
Cách miêu tả của tác giả có vẻ tự do nhưng lại theo một trình tự khá chặt chẽ. Nhà văn miêu tả các loài chim theo hai nhóm: chim lành và chim ác.
Nét đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích Lao xao (Trích Tuổi thơ im lặng của Duy Khánh)
Qua cái nhìn hồn nhiên của tuổi thơ, nhóm chim lành hiện lên thật đáng yêu. Chúng có quan hệ gần gũi với con người: Chúng mang vui đến cho trời đất, hót mừng được mùa,...
Sau khi tả lướt nhanh đặc tính của các loài chim lành, Duy Khán tập trung miêu tả đặc điểm và hoạt động của các loài chim ác mà dại diện là diều hâu, quạ, cắt và một loài chống lại chúng: chèo bếo. Dưới ngòi bút cả tác giả, bọn diều hâu, quạ và cắt hiện lên thật đáng ghét: vừa xấu xa, vừa độc ác.
Tên diều hâu chuyên đi bắt trộm gà con, một tên kẻ cắp lão luyện. Còn lũ quạ dám xông cả vào chuồng lợn. Rồi bọn cắt chuyên dùng đôi cánh nhọn như dao bầu xỉa chết chim lành. Thật là một lũ kẻ cướp. Nhưng kẻ cướp lại gặp bà già. Chúng đã gặp phải một đối thủ đáng gờm: chèo bẻo. Bằng cảm quan dân gian, Duy Khán vẫn xếp chèo bẻo vào loài chim ác, gọi chèo bẻo là “kẻ cắp”. Nhưng cũng chính cảm quan của tác giả lại rất mâu thuẫn, và từ cảm quan ấy ta thấy chèo bẻo không phải là loài chim ác nữa mà lại trỏ' thành người tốt Ngày mùa, chúng thức suốt đêm. Mới tờ mờ đã cất tiếng gọi người: chè cheo chét... chúng nó trị kẻ ác. Thì ra, người có tội trở thành người tốt thì tốt lắm.
Có thể nói, nghệ thuật miêu tả các loài chim trong Lao xao rất sinh động, tự nhiên và hấp dẫn... Càng hấp dẫn hơn bởi chất văn hoà dân gian thấm nhuần trong đó.
Trong một đoạn văn ngắn, Duy Khán đã đưa vào khá nhiều yếu tố văn hoà dân gian. Như bài đồng dao; Bồ các là bác chim ri. Chim ri là dì sáo sậu. Sáo sậu là cậu sáo đen. Sáo đen là em tu hú. Tu hú là chú bồ các; các thành ngữ: dây mơ rễ má, kể cắp gặp bà già, Lia tia láu láu như qua vào chuồng lợn; các truyện cố tích: Sự tích chim bìm bịp, Sự tích chim chèo bẻo.
Tuy nhiên, chất văn hoà dân gian không chỉ thê hiện ơ việc dẫn vào bài văn những bài đồng dao, nhửng câu thành ngữ, những truyện cồ tích, mà còn thấm đượm trong cái nhìn và cảm xúc của nhà văn. Duy Khán nhìn nhận, đánh giá về các loài chim trong quan hệ với con người, với công việc nhà nông. Đặc biệt ông còn tỏ thái độ rất rõ đối với chúng: thiện cảm với chim lành và ác cảm với chim ác. Thậm chí, ôrg còn gán cho chúng những tính nết và phám chất cua con người: bìm bịp là kẻ bịp bợm, khi con chim này kèu thì các loài chim ác, chim dữ mới ra mặt; chèo bẻo là kê cắp, rồi người có tội trở thành người tốt thì tôt lắm...
Từ việc tìm hiểu nghệ thuệt miêu tả của bài văn, tự nhận thấy nhà văn Duy Khánh có một vốn hiểu biết khá Lường Um, phong phú về các loài chim ở làng quê Việt Nam. Cũng từ việc tìm hiếu nghệ thuật của ngòi bút miêu tả của tác giả, ta cảm nhận được tình cảm yêu mến và sự gắn bó sâu sắc của tác giả với thiên nhiên, với làng quê mình.
Bài văn đã truyền đến cho người đọc những cảm xúc và tình cảm trong sáng với quê hương đất nước.
Nguồn the ocean
Cách dẫn dắt lời kể của tác giả trong bài văn theo trình tự như sau: tác giả dẫn dắt lời kể dựa trên việc nối kết các loài chim với nhau trong đời sống tự nhiên của nó. Từ loài chim này liên hệ tới loài chim khác.