Lãnh đạo cuộc phản công ở kinh thành Huế là:
A. Phan Châu Trinh
B. Nguyễn Trường Tộ
C. Tôn Thất Thuyết
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
SGK 11 trang 125 – Tôn Thất Thuyết đã hạ lệnh cho các đạo quân của mình tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá và tòa Khâm sứ.
Chọn đáp án C.
Sau cuộc phản công quân Pháp của phái chủ chiến thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi và Tam cung rời khỏi hoàng thành đến sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, nhân danh vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi các văn thân và nhân dân đứng lên giúp vua cứu nước
Đáp án cần chọn là: A
Đáp án: A
Giải thích: Mục…1 (phần I)….Trang…125...SGK Lịch sử 11 cơ bản
Sau cuộc phản công quân Pháp của phái chủ chiến thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi và Tam cung rời khỏi hoàng thành đến sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, nhân danh vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi các văn thân và nhân dân đứng lên giúp vua cứu nước
Đáp án cần chọn là: A
Hiệp Đốc quân vụ Đại thần- Thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết (1839-1913), người chỉ huy cuộc tấn công vào Tòa Khâm sứ Pháp tại kinh thành Huế, tháng 7/1885. |
“Chủ chiến” lúc bấy giờ chính là thái độ có trách nhiệm đối với chủ quyền dân tộc. Xuất phát từ động cơ yêu nước, Tôn Thất Thuyết và phái “Chủ chiến” đã tiến hành hàng loạt các hành động chống Pháp: cùng Hoàng Kế Viêm phối hợp với quân Cờ Đen Lưu Vĩnh phúc phục binh giết chết võ quan Pháp Francis Garnier; phản đối Hiệp ước Harmand; chuẩn bị lực lượng chống Pháp sau Hiệp ước Patơnốt…đặc biệt là cuộc tấn công vào Tòa Khâm sứ Pháp (5/7/1885), được coi là sự vùng dậy cuối cùng của Vương triều Nguyễn…
Trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, Tôn Thất Thuyết là đối tượng thanh toán hàng đầu của quân Pháp. Ngày 22/5/1885, Freycinet, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp đại diện cho Khâm sứ Huế đã nói: “Không thể không trừng phạt hành vi của viên Thượng thư Bộ Binh nước Nam”. Trước tình thế bị thực dân Pháp muốn loại bỏ, Tôn Thất Thuyết quyết định ra tay sớm giành thế chủ động bằng cách tấn công vào Tòa Khâm sứ Pháp.
Ngày 4/7/1885 (tức 22 tháng 5 âm lịch), Tôn Thất Thuyết lệnh cho binh sĩ đặt đại bác hướng về phía tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá, là hai địa điểm đóng quân của địch. Gần tối, Trần Xuân Soạn lần lượt cho đóng hết các cửa thành và đặt thêm súng thần công ở phía trên. Đêm đó, Tôn Thất Thuyết bí mật chia quân ở các dinh vệ làm hai đạo: một đạo do em trai ông là Tôn Thất Lệ chỉ huy, nửa đêm vượt sông Hương sang hợp với quân của Đề đốc thủy sư và Hiệp lý đánh úp tòa Khâm sứ. Ngay trong đêm, họ đã phối hợp cùng 5.000 thủy binh của triều đình để nổ súng tấn công. Pháo binh ở phía Đông nam kinh thành Huế cũng phối hợp yểm trợ. Tôn Thất Thuyết cùng Trần Xuân Soạn ở bên này sông sẽ chỉ huy đánh vào trấn Bình Đài nhằm diệt quân tiếp viện. Ông cử một toán quân mai phục ở cầu Thanh Long để đánh úp Đại tá Pemot( Chỉ huy đồn Mang Cá) và thuộc hạ. Đội quân thứ ba, đóng ở phía sau Đại nội để vừa trợ chiến vừa dự bị.
Đêm ngày mùng 4, rạng sáng 5/7/1885, quân Pháp đang khao thưởng quân đội, thì quân Tôn Thất Thuyết bắn một phát đại bác để nhất tề tấn công vào Trấn Bình Đài, đồng thời cánh quân của Tôn Thất Lệ đồng loạt tấn công vào Tòa Khâm sứ Pháp.
Quân Pháp bị bất ngờ nhưng vẫn thủ thế tới sáng, trong khi đó đại bác quân Nguyễn đã bắn sập mái nhà và lầu Khâm sứ, đồn Mang Cá thì bị phóng hỏa, quân sĩ hò reo và nã súng… nhiều trại lính, chuồng ngựa bị thiêu cháy. Quân Nguyễn tràn vào chiếm Tòa, gặp sự chống cự của trung úy Boucher và một số quân Pháp…nhưng, do thiếu cảnh giác, quân Pháp chết khá nhiều. Vì đồn Mang Cá và Tòa Khâm sứ cách nhau 2.500m và ngăn cách bằng sông Hương nên quân Pháp không thể cứu viện lẫn nhau.
Khi mặt trời mọc, quân Pháp phản công, họ huy động súng, pháo hạm Javelin…bắn hạ rất nhiều quân Nguyễn, phá hủy nhiều cung điện và Hoàng thành. Pháp chia quân làm 3 cánh tiến vào kinh thành, lần lượt chiếm các vị trí then chốt: Đại Nội, vườn Thượng Uyển và cửa Hiển Nhơn. Bị tấn công bất ngờ, quân Nguyễn anh dũng chống cự, hạ gục thiếu úy Pellicot, sử dụng các vọng lâu làm pháo đài, gây cháy nổ và làm nhiều quân Pháp bị thương. Bên phía Tòa sứ, đoàn quân của Cheroute cũng bị chặn lại, một số sĩ quan Pháp bị tiêu diệt. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn tiến được vào thành. Quân triều đình đã không giữ nổi thành trước sự phản công của quân Pháp. Các đạo quân Nguyễn tháo chạy ra cửa Đông Ba, nhưng bị bao vây, 1.500 người dân và binh lính triều đình đã ngã xuống vì súng đạn, giẫm đạp khi cố vượt khỏi thành. Quân Pháp chiếm thành, hạ cờ triều đình Huế, treo cờ tam đài lên kỳ đài. Họ tiến hành cướp bóc, giết chóc, rồi đốt phá, vùi lấp các thi hài quân và dân tham gia cuộc chiến...
Kết thúc trận đánh ngày 5/7/1885, thất bại hoàn toàn thuộc về triều đình Huế. Quân Nguyễn hi sinh tới 1.200 – 1.500 người, trong khi quân Pháp mất 16 người và 80 bị thương. Quân Pháp đã chiếm được kho vũ khí, quốc khố, khí giới, lương thực…Mặc dù, quân Nguyễn đã có sự chuẩn bị cẩn thận trong việc tấn công, nhưng những hạn chế về truyền tin, vũ khí yếu kém (sức công phá thấp, không bắn được tầm xa..) nên gặp phải thất bại. Trước cục diện đó, vua Hàm Nghi đã kịp xuất cung, Tôn Thất Thuyết đưa vua chạy ra Tân Sở trong sự truy nã của quân Pháp. Tại Kinh thành, Hoàng Thái hậu Từ Dũ, và Đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường ở lại giảng hòa với quân Pháp.
Cuộc phản công của nhóm “Chủ chiến” triều đình Huế năm 1885 là sự vùng dậy cuối cùng của triều đình Nguyễn. Biến cố thất thủ kinh đô (5/7/1885) là một trang sử đẫm máu trong nhân dân Huế, tồn tại trong ký ức dân gian, lễ cúng cô hồn…đồng thời cũng bắt đầu một giai đoạn mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với các phong trào Cần Vương, Văn thân.
Chọn C