Năm 1698 , Nguyễn Hữu cảnh kinh lý phía Nam làm gì !?
Mấy bạn giúp mình với tí nữa mình thi rồi !!!
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
năm 1698,,,,,Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, thấy nơi đây đất đã mở mang "hàng ngàn dặm và có dân trên 4 vạn hộ" để chấm dứt tình trạng lưu dân tự khẩn hoang lập ấp đó, Cảnh bèn lập phủ Gia Định để coi hai huyện: Phước Long (Biên Hòa) và Tân Bình (Sài Gòn, từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ Đông) diện tích rộng khoảng 30.000 km2
Phủ Gia Định gồm 2 dinh: Dinh Trấn Biên thuộc tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước hiện nay -Dinh Phiên Trấn thuộc thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tây Ninh hiện nay.
Tham khảo
- Quá trình khai phá của Đại Việt ở vùng đất phía nam:
+ Từ thế kỉ XVI, chính quyền chúa Nguyễn đẩy mạnh các hoạt động di dân, khai phá vùng đất phía Nam.
+ Đến cuối thế kỉ XVIII, chúa Nguyễn đã làm chủ được một vùng đất rộng lớn từ phía nam dải Hoành Sơn đến mũi Cà Mau.
- Quá trình thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa:
+ Chúa Nguyễn ở Đàng Trong là chính quyền đầu tiên xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào đầu thế kỉ XVII, việc thực thi chủ quyền được thực hiện một cách chặt chẽ thông qua hoạt động thường xuyên của hải đội Hoàng Sa.
+ Dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền chúa Nguyễn, quá trình thực thi chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thực hiện một cách liên tục suốt từ thế kỉ XVII và được tiếp nối dưới thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
- Phát triển kinh tế toàn diện với nhiều nghành nghề nhờ có khí hậu gió mùa, có đất liền, phần biển rộng, nhiều tài nguyên.
- Hội nhậ và giao lưu dễ dàng với khu vực Đông Nam Á và thế giới nhờ vị trí gần trung tâm Đông Nam Á và là cầu nối giữa ĐNA đất liền và ĐNA hải đảo
* Những cũng có một số khó khăn như:
- Nhiều thiên tai, bão lũ, lụt, cháy rừng do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa, van biển
- Phải luôn cảnh giác bảo vệ vùng trời, vùng biển đất liền trước nguy cơ có ngoại xâm
Tối ngày 19/3/1950, LS Nguyễn Hữu Thọ bị bắt giam vào khám Lớn. Ngày 27/3/1950, nhà cầm quyền đưa ông ra xét xử. Các luật sư nổi tiếng đã biện hộ cho ông. Tòa tuyên bố trả tự do tạm cho LS Nguyễn Hữu Thọ sau khi đóng 5.000 đồng thế chân. Địch ra lệnh đóng cửa các tờ báo có cảm tình với phái đoàn đại biểu các giới Thần chung, Tâm điểm, Ánh sáng… Phái đoàn đại biểu các giới in truyền đơn vạch rõ thủ đoạn của địch, vì LS Nguyễn Hữu Thọ cùng ký tên vào truyền đơn với những người khác, nên địch vin vào cớ này để bắt ông ngày 13/4/1950 và giam vào Khám Lớn.
Đến năm 1952, khi bộ đội ta tiến lên giải phóng Tây Bắc, chính quyền thực dân đưa Luật sư Nguyễn Hữu Thọ về giam ở Sơn Tây. Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của Đoàn Luật sư Sài Gòn - Chợ Lớn và giới nhân sĩ, trí thức trong cả nước, tháng 11-1952, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được trả tự do.
Trở về Sài Gòn, mở lại văn phòng luật và tiếp tục đấu tranh với kẻ thù, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tham gia tổ chức nhiều hoạt động đấu tranh cách mạng đòi dân sinh, dân chủ. Nhằm ngăn chặn ảnh hưởng to lớn của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, ngày 15-11-1954, chính quyền Sài Gòn lại bắt giam và lưu đày ông ra miền núi Củng Sơn, Tuy Hòa, Phú Yên. Ông bị giam lỏng ở đây gần 7 năm, cho đến khi được lực lượng vũ trang của Khu ủy Khu V giải thoát. Tại Đại hội lần thứ nhất (tháng 2-1962) Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 3-1964, Đại hội lần thứ hai Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã bầu Luật sư làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến tháng 6-1969, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được cử làm Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Bằng uy tín và tài năng, Luật sư, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã lãnh đạo quân và dân miền Nam giành nhiều thắng lợi to lớn, góp phần hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau khi thống nhất đất nước, đồng chí Nguyễn Hữu Thọ được nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội các khóa VI, VII, VIII và được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tháng 6-1976), Quyền Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tháng 4-1980), Chủ tịch Quốc hội và Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tháng 7-1981). Tại Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận (họp từ ngày 31-1 đến ngày 4-2-1977), Luật sư được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tháng 11-1988, Luật sư được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tháng 8-1994, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã suy tôn Luật sư làm Chủ tịch danh dự Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với các cương vị của mình, Luật sư, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã dành nhiều thời gian, tâm huyết tìm hiểu thực trạng, tháo gỡ khó khăn trong công tác Mặt trận, đề xuất với Đảng và Nhà nước những cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm vun đắp, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng và phát huy vai trò Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam trong thời kỳ mới.
Nhưng không lâu sau đó, ngày 13-4-1950, Pháp lại bắt giam ông vì tội “phát tán truyền đơn bất hợp pháp”. Đồng bào cả nước một lần nữa lại đứng lên đấu tranh đòi trả tự do cho ông (lúc này, ông đã được bí mật kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương).
Thực dân Pháp đã đưa ông ra Bắc đi đày và quản thúc tại Bản Giẳng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, nơi “ngã ba biên giới” Việt Nam - Lào - Trung Quốc, nơi mà “một con gà gáy ba nước đều nghe”. Sau đó, khi quân đội ta tiến lên giải phóng Tây Bắc thì chúng đưa ông về giam ở Sơn Tây.
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của Đoàn luật sư và nhân sỹ, trí thức yêu nước ở Sài Gòn- Gia Định, tháng 11-1952, ông được trả tự do và trở về Sài Gòn, mở lại văn phòng luật sư, tiếp tục đấu tranh với kẻ thù ngay tại sào huyệt của chúng.
Để ngăn chặn ảnh hưởng to lớn của ông, ngày 15-11-1954, chính quyền bù nhìn Sài Gòn đã bắt giam và lưu đày ông gần 7 năm ở Tuy Hòa và miền núi Củng Sơn, tỉnh Phú Yên.
Nguyễn Hữu Thọ là một trí thức yêu nước tiêu biểu, nhà hoạt động chính trị xã hội nổi tiếng trong nước và trên thế giới, một luật sư tài năng, đầy uy tín, một nhân cách lớn, một ngọn cờ tập hợp các tầng lớp nhân dân, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ông đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước như: Chủ tịch Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam (tháng 2-1962), Chủ tịch Hội đồng cố vấn của chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam (tháng 6-1969), Phó chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1976). Sau khi Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng qua đời, ông giữ chức vụ Quyền Chủ tịch nước (từ tháng 4-1980 đến tháng 7-1981). Sau đó ông giữ chức vụ Chủ tịch Quốc hội (1981-1987), Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ tháng 11-1988 đến tháng 8-1994), Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước khóa VII và VIII (từ 1981 đến 1992), Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ tháng 8-1994 đến tháng 12-1996).
Với những công lao đóng góp to lớn như vậy, ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
Ông cũng được Nhà nước Liên xô (trước đây) tặng Giải thưởng Lê-nin và Huân chương Hữu nghị “Vì sự nghiệp củng cố hòa bình giữa các dân tộc”, Nhà nước Cu ba tặng Huân chương “Đoàn kết - Chiến đấu”, Nhà nước Bungari tặng Giải thưởng Đimitrốp, Hội đồng Hòa bình thế giới tặng Huân chương Giô-li-ô Qui-ri (Joliot Cuire).
Đánh giá về cuộc đời hoạt động, công lao và sự cống hiến của ông - nhà trí thức yêu nước tiêu biểu, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh đã đúc kết: “Nguyễn Hữu Thọ - người con tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Đổ máu trong bài thơ Lượm thuộc câu ẩn dụ
- Đổ máu: sự hi sinh, mất mát
Chúc bn thi tốt nhé
Theo mimh "đổ máu" là hình ảnh an du
Trong bài thơ"Lượm" Tự "đổ máu" nghĩa là xảy ra chiến tranh ác liệt khiến nhiều chiến sĩ hi sinh
a) Thuận lợi:
- Đất phù sa có diện tích rộng lớn, được bồi đắp hăng năm nên rất màu mỡ, đặc biệt là dải đất phù sa ngọt dọc sông Tiền và sông Hậu (diện tích 1,2 triệu ha) rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa, cây ăn quả.
- Khí hậu: thể hiện rõ tính chất cận xích đạo. Tổng số giờ nắng trung bình năm là 2.200 — 2.700 giờ. Chế độ nhiệt cao, ổn định với nhiệt độ trung bình năm 25 — 27°c. Lượng mưa hằng năm lớn (1.300 — 2.000mm), tập trung vào các tháng mùa mưa (từ tháng V đến tháng XI). Với điều kiện khi hậu như thế, rất thích hợp cho việc trồng các cây nhiệt đới cho năng suất cao, khả năng xen canh, tăng vụ rất lớn; có thể tiến hành các hoạt động sản xuất diễn ra liên tục quanh năm.
- Mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, cắt xẻ châu thổ thành những ô vuông, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đường thủy, sản xuất và sinh hoạt.
- Sinh vật: thảm thực vật chủ yếu là rừng ngập mặn (Cà Mau, Bạc Liêu,...) và rừng tràm (Kiên Giang, Đồng Tháp...), về động vật, có giá trị hơn cả là cá và chim.
- Tài nguyên biển: hết sức phong phú với hàng trăm bãi cá, bãi tôm và hơn nửa triệu ha mặt nước nuôi trồng thủy sản.
- Các loại khoáng sản chủ yếu là đá vôi (Hà Tiên, Kiên Lương) và than bùn (U Minh, Tứ giác Long Xuyên). Ngoài ra, còn có dầu khí ở thềm lục địa.
b) Khó khăn:
- Mùa khô kéo dài từ tháng XII đến tháng IV năm sau. Vì thế, nước mặn xâm nhập vào đất liền, làm tăng độ chua và chua mặn trong đất, gây trở ngại lớn cho sản xuất và sinh hoạt. Ngoài ra, đôi khi có thể xảy ra các thiên tai khác.
- Phần lớn diện tích của đồng bằng là đất phèn, đất mặn. Cùng với sự thiếu nước trong mùa khô đã làm cho việc sử dụng và cải tạo đất gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, một vài loại đất lại thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là các nguyên tố vi lượng hoặc đất quá chặt, khó thoát nước.
- Tài nguyên khoáng sản hạn chế, gây trở ngại cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng.
Tài nguyên thiên nhiên.
- Đất đai là tài nguyen quan trọng nhất của cùng, có 3 nhóm đất chính:
+ Nhóm đất phù sa ngọt, chiếm 65% diện tích toàn vùng, trong đó có 1 triệu ha đất tốt nhất, phân bố ven sông Tiền, sông Hậu. Đây là loại đất chủ yếu để trồng lúa.
+ Nhóm đất phèn hằng năm thường bị ngập úng vì trũng. Đất có độ phì thấp, rất chua, có nhiều nhôm sắt hoạt tính. Phân bố ở Đồng Tháp, tứ giác Long Xuyên, Tây Hậu Giang.
+ Nhóm đất mặn ven biển (bản chất là đất phù sa bị nhiễm mặn do triều dâng), phân bố ở ven biển từ Gò Công qua Bến Tre, Vĩnh Long, Cà Mau đến Kiên Giang.
+ Diện tích của 2 nhóm đất này thay đổi theo mùa. Về mùa khô, có khoảng 2,5 triệu ha, nhưng về mùa mưa chỉ còn 1 triệu ha. Nếu cải tạo tốt, có thể sử dụng chúng để trồng cây lương thực hoặc trồng dứa, mía bằng cách vượt liếp (làm luống).
+ Khó khăn chính khi khai thác 2 loại đất này là đất thiếu dinh dưỡng, nhất là các nguyên tố vi lượng, đất quá chật, khó thoát nước.
- Khí hậu: Mang tính chất khí hậu cận xích đạo. Tổng giờ nắng trung bình từ 2.200-2.700 giờ. Nhiệt độ cao, ổn định với nhiệt độ trung bình năm 25-27 độ C. Lượng mưa lớn từ 1.400mm-1.800mm tập trung vào các thành mùa mưa (tháng 5-tháng 11).
- Thuỷ văn: Hệ thống sông ngòi dày đặc, chủ yếu là sông Cửu Long, cộng với hàng nghìn km đường kênh rạch, cắt xẻ châu thổ thành những ô vuông, khiến giao thông trở nên dễ dàng.
- Tài nguyên sinh vật: Rừng ngập mặn ven biển (rừng tràm, đước…).
- Vườn chim tự nhiên nổi tiếng ở Ngọc Hiển, Cái Nước, Vĩnh Lợi, U Minh… Rừng ngập mặn còn là địa bàn để nuôi tôm, cá ven bờ, chắn sóng, bồi đắp phù sa mở rộng đồng bằng.
- Tài nguyên biển: Có 736 km bờ biển với nhiều cửa sông, chứa đựng nguồn hải sản thuộc loại lớn nhất cả nước. Trữ lượng tôm chiếm 50% của toàn quốc.
- Khoáng sản: Nghèo hơn các vùng khác. Đáng chú ý là đá vôi ở Hà Tiên, than bùn ở Cà Mau, dầu khí có triển vọng, phân bố ở thềm lục địa giáp biển Đông và vinh Thái Lan. Quan trọng nhất là bể trầm tích Cửu Long, dự báo khoảng 2 tỷ tấn.
Tuổi con chiếm 1 phần thì tuổi mẹ chiếm 5 phần
Khi tuổi mẹ gấp 8 lần tuổi con thì:
Tuổi con là :
28 : (5 - 1) = 7(tuổi)
Tuổi mẹ là:
7 x 5 = 35(tuổi)