mọi người hãy xem bài em có đúng k ạ
Nghị luận xã hội - Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình Trong bài thơ “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu có viết: Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
“Cái quý giá nhất của con người là đời sống. Vì đời người chỉ sống có một lần”. Vậy phải sống sao cho “khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn?”. Để trả lời với tất cả chúng ta câu hỏi đó, trong bài “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu đã tâm sự bằng những câu thơ giản dị mà rất sâu sắc: Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
Tố Hữu muốn khẳng định trước hết sống phải có ích cho đời. Là con chim không chỉ biết kêu mà cao hơn nữa phải biết cất tiếng hót ca lanh lảnh hót cho đời, tạo nên những bản nhạc rộn rã tươi vui cho đất trời. Cũng như vậy, đã là chiếc lá thì chiếc lá phải xanh tươi đưa lại sức sống cho cây cối, làm mát mắt cho đời và hút nhiều thán khí, nhả ra nhiều ô-xy đem lại sự sống cho con người và muôn loài vật trên trái đất này. Ngay cả những sinh vật hết sức nhỏ bé như thế, mà chúng còn biết hiến dâng những gì tốt đẹp nhất, có ý nghĩa nhất giúp ích cho đời. Vậy, chúng ta là những con người “Chúa tể của trần gian, kiểu mẫu của muôn loài” (Sêch-xpia), là “Hoa của đất” (tục ngữ), là động vật duy nhất có trí tuệ và tâm hồn, chúng ta phải làm gì và sống ra sao đây để cùng muôn loài tô điểm cho quê hương, đất nước, cho “Trái đất này là ngôi nhà của chúng mình” ngày một tươi đẹp hơn.
Muốn sống cho xứng đáng tên gọi thiêng liêng cao quý của mình “Con người! Ôi hai tiếng ấy vang lên mới tự hào và kiêu hãnh làm sao!” (Gor –ki), mỗi chúng ta phải có lẽ sống đẹp. Nghĩa là phải biết ứng xử một cách đẹp đẽ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, với quê hương đất nước. Nói như Tố Hữu, lẽ sống đẹp là lẽ sống có “vay” thì có “trả”, có “nhận”, thì phải có “cho”, phải cống hiến hy sinh sức lực, tâm trí, thậm chí là cả sự sống của mình cho đời, để đời ngày một “đàng hoàng”, “tươi đẹp hơn”.
Mỗi chúng ta giờ đây được sống trên đời, hít thở khí trời, đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người, chúng ta đã được nhận quá nhiều từ công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà tổ tiên, từ tình yêu thương đùm bọc của bà con, đồng bào, từ sự hy sinh của biết bao anh hùng liệt sĩ đã đổ máu xương để xây dựng quê hương và giữ gìn đất nước thanh bình tươi đẹp như hôm nay… Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã được thừa hưởng biết bao thành quả của người đi trước để lại và người khác đem cho. Như thế là chúng ta đã “vay”, đã “mắc nợ” người thân, nhân dân, đất nước nhiều rồi! Là con người vốn giàu nhân cách và lòng tự trọng, lẽ nào chúng ta nhắm mắt ăn quỵt được sao? Không! Chúng ta phải “trả”, hơn nữa phải “cho” nhiều hơn những gì mà chúng ta đã “vay”, đã “nhận”. Đó là hành động vừa đúng với nhân tâm, vừa hợp với Đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”. Cách đây hơn nửa thiên niên kỷ, thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, một người Việt Nam nhất trong những người Việt Nam nhất trong lịch sử quá khứ cũng từng đã viết “Ăn lộc phải đền ơn kẻ cấy cày”, đó sao?
Trong sự nghiệp xây dựng chính quyền và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, ở Việt Nam ta đã có biết bao con người sống rất đẹp cho đạo lý, lẽ sống “trả”, “vay” đó, như Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Nguyễn Viết Xuân, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Nguyễn Văn Trỗi, Lý Tử Trọng, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc,…Họ sẵn sàng “cho” cả cuộc đời, sẵn sàng đổ máu mình cho Tổ quốc đơm hoa Độc lập, kết trái tự do. “Và em nữa. Lưng đèo Mụ Gia, ai biết tên em? Chỉ biết cô gái nhỏ anh hùng. Sống chết từng đêm; Mà lòng thanh thản lạ: Đâu phải hy sinh, em vinh dự vô cùng”. (Tố Hữu – gửi TNXP).
Noi theo những tấm gương cao đẹp đó, giờ đây, những người đang sống lại tiếp tục hy sinh, cống hiến tâm trí và sức lực của mình để làm giàu cho Tổ quốc:
“Ta lại hành quân như năm nào đánh Mĩ
Những sư đoàn không súng, lại xung phong
Ta lại thắng như những chàng dũng sĩ
Biến và hoang vu, thành cơm áo hoa hồng.”
(Tố Hữu).
Hàng ngày, hàng giờ trên đất nước ta có biết bao con người đã “cho” đi những giọt mồ hôi thấm đẫm tâm não để “nhận” lại những công trình khoa học, những sản phẩm lao động; hoặc “cho” đi những giọt máu đào nhân đạo để cho người bệnh có nụ cười ngọt ngào, vì sự sống được hồi sinh; hoặc “cho” đi những đồng tiền mà mình tiết kiệm được để cho những người nghèo, cơ nhỡ có những điều kiện vật chất tối thiểu để hướng cuộc đời về phía tương lai.
Bên cạnh biết bao con người ngày đêm miệt mài học tập, lao động, cống hiến tài năng sức lực cho xã hội, đất nước, thì có một bộ phận không nhỏ của thanh niên lại chỉ biết “vay” và “nhận”, thậm chí còn “nhận” quá nhiều mà không chịu “trả”. Họ đua đòi theo con đường ăn chơi hưởng lạc: đến với vũ trường, tìm đến “nàng tiên nâu”. “cái chết trắng”, để tiêu vèo hết cuộc đời trong chốc lát, vi những thú vui vô nghĩa, mà không hề biết hổ thẹn. Những người có lối sống ích kỷ và bất nhân, vô ơn bạc nghĩa ấy thật đáng phê phán, lên án, phỉ nhổ.
Như vậy, mấy câu thơ giản dị của Tố Hữu đã thể hiện một lẽ sống biết “vay”-“trả”; “cho”-“nhận” đúng lương tâm và đạo lí rất đẹp của người Việt Nam xưa nay. Hiểu được lẽ sống đó, mỗi chúng ta, ở từng cương vị cuộc sống khác nhau, hãy cống hiến hết sức mình, hãy “cho” thật nhiều và gắng làm “Một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời” như nhà thơ Thanh Hải đã viết:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
a. Bốn câu đầu
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
- Điệp ngữ “Tôi muốn” nhấn mạnh cái tôi khát khao, ước muốn. Đây là cái tôi đặc trưng của văn học lãng mạn 30-45
- Động từ “tắt”, “buộc” mang sắc thái tiêu cực khiến ước muốn của thi nhân có vẻ như phũ phàng. Nhưng nắng và gió là hiện tượng thiên nhiên, không thể điều khiển được nên ta thấy ước muốn không chỉ phũ phàng mà còn phi lí. Cái tôi chủ quan muốn khống chế, chi phối những hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng.
- Ở câu 2 và 4 xuất hiện từ ‘cho” và “đừng” được điệp lại, có sắc thái như van nài, khẩn khoản. Nhà thơ sợ rằng nắng làm màu nhạt mất, gió làm hương đời bay xa. Hỏ ra, đằng sau ước muốn có vẻ phũ phàng, vô lí kia là tấm lòng của một thi nhân yêu say đắm cuộc sống, yêu vô cùng những màu sắc, hương thơm của cuộc đời; và muốn nâng niu, trân trọng, gìn giữ nó trong vòng tay.
=> Ước muốn thiết tha của niềm yêu. (Thiết tha đến độ nghe có vẻ phi lí)
b. 7 câu tiếp: Bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống nơi trần thế
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đòng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”
* Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế:
- Điệp ngữ “của” -> tạo sự liền mạch trong hình tượng thơ với bốn câu thơ trên.
- Điệp ngữ “này đây”
-> cảm giác hân hoan, vui sướng vô ngần của thi nhân.
-> sự giàu có, phong phú đến mức say đắm của cuộc đời.
=> cả xúc cảm chủ quan và cả cảnh vật cuộc đời khách quan được khắc họa.
- “này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời ở ngay trước mắt, ngay trong lúc này. -> cuộc sống tươi đẹp hiện hữu ở cả thời gian và không gian.
- Căng mở các giác quan, cảm nhận được vẻ đẹp toàn vị, cả hương vị và thanh sắc của cuộc đời: có vị ngọt; hương thơm, màu sắc; dáng hình uyển chuyển; âm thanh tình tứ; ánh sáng…
-> Mỗi ngày như một bữa tiệc thịnh soạn được bày ra, mời gọi, mang niềm vui đến cho mọi nhà.
=> Quan điểm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu: Cuộc sống xung quanh chúng ta đẹp vô cùng. Xuân Diệu tìm vẻ đẹp của cuộc đời không ở đâu xa mà ở ngay cõi trần gian, ngay bên cạnh mình.
* Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân tình yêu: (tất cả được nhìn qua lăng kính của tình yêu)
- Khu vườn xuân đã biến thành khu vườn yêu, khu vườn hạnh phúc. Trong khu vườn ấy có:
+ Cặp đôi “ong” – “bướm” trong “tuần tháng mật” yêu đương hạnh phúc. “tuần tháng mật” mang nghĩa đen là mật ngọt của thiên nhiên hoa trái. Nó gợi đến “tuần trăng mật” của đời người. Hình như với Xuân Diệu, thời gian của đời người lúc nào cũng là tuần trăng mật, lúc nào cũng ngọt ngào, lúc nào cũng đầy mê đắm.
+ “Hoa” của “đồng nội xanh rì” -> trên đồng ruộng xanh mênh mông là hoa sặc sỡ, rực rỡ.
+ “Lá” của “cành tơ” -> điệp phụ âm “ph” trong từ láy “phơ phất”, điệp âm “ơ” trong cụm từ “tơ phơ”, nhiều thanh bằng trong cụm “cành tơ phơ phất” gợi hình ảnh những lá mềm mại, non tơ, phơ phất đung đưa trong gió. Có một cái gì đó vừa đẹp vừa mong manh. Cái đẹp khiến người ta mê đắm, cái mong manh khiến người ta trân trọng, nâng niu, giữ gìn.
+ “Yến anh” với “khúc tình si”: tiếng hót của chim chóc được XD khái quát trong hình tượng “yến anh” – là chim yến và chim oanh – coi là biểu tượng của lứa đôi, hạnh phúc. Tiếng hót được cảm nhận là “khúc tình si” say đắm.
+ “ánh sáng chớp hàng mi – thần Vui thường gõ cửa”: Xuân Diệu quan niệm con người là chuẩn mực của cái đẹp. Ánh sáng là ánh sáng buổi sớm. Ánh dương buổi sớm ấy hình như không phải tỏa ra từ thiên nhiên mà tỏa ra từ sau cái chớp mắt của thiếu nữ. Sau cái chớp mắt ấy, ánh sáng tỏa ra muôn nơi, chan chứa khắp thế gian. Vì thế, nhà thơ đón mỗi buổi sáng như đón thần Vui gõ cửa. cái thúc giục bên ngoài và tâm trạng bồn chồn bên trong chính là xúc cảm của niềm yêu. Niềm yêu của một nhà thơ không muốn bỏ lỡ dù chỉ là một khoảnh khắc của ngày mới.
=> Từ thi nhân trước khu vườn mùa xuân trần thế đã biến thành người tình nhân say đắm trong khu vườn mùa xuân tình yêu.
- Khái quát lại “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
+ Nhịp ngắt 3/5, trọng tâm của câu thơ rơi vào chữ “ngon”, tô đậm cảm giác tận hưởng bằng vị giác. Tháng giêng là tháng đầu tiên của mùa xuân, vì thế nó có thể coi là hoán dụ cho mùa xuân nhưng mùa xuân cũng lại gợi đến một ẩn dụ cho tuổi trẻ của đời người. Như vậy, tháng giêng ngon, mùa xuân tuyệt vời và tuổi trẻ cũng thật tuyệt vời.
+ Hình ảnh so sánh lạ (phép tương giao, cảm quan tương ứng học theo thơ phương Tây: cho rằng vạn vật trên thế giới đều liên quan đến nhau). Nếu “tháng giêng” là sự căng mọng, đẹp tươi nhất của mùa xuân thì “cặp môi gần” là sự căng mọng, đẹp tươi nhất của tuổi trẻ.
Với định ngữ “gần”, thấy cuộc đời không xa xôi mà ngay gần cạnh, không xa xôi mà ngay ở đây, ngay lúc này.
+ Biện pháp chuyển đổi cảm giác: “tháng giêng” là khái niệm vô hình, trừu tượng -> “ngon như cặp môi gần” : hữu hình cụ thể, có thể cảm nhận bằng vị giác => cảm nhận, hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân một cách rõ nét, trọn vẹn hơn.
+ Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ: Con người mới là chuẩn điểm của cái đẹp.