Tóm Tắt Chiến Tranh Lạnh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chiến tranh Nam - Bắc triều
* Nguyên nhân:
- Cuối triều Lê các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi tranh giành quyền lực.
- Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra nhà Mạc (Bắc triều).
- Năm 1533, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hoá lập một người thuộc dòng dõi nhà Lê lên làm vua, lập ra Nam triều.
=> Gây ra chiến tranh Nam - Bắc triều.
* Diến biến:
- Chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến kéo dài hơn 50 năm từ vùng Thanh – Nghệ trở ra bắc.
- Đến năm 1592, Nam triều chiếm được Thăng Long, họ Mạc chạy lên Cao Bằng chiến tranh chấm dứt.
Hậu quả:
- Gây tổn thất lớn về người và của.
- kinh tế bị tàn phá.
Tính chất: là cuộc chiến tranh phi nghĩa.
a) Nguyên nhân:
- Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm lên thay nắm mọi quyền hành gọi là chúa Trịnh => Đàng Ngoài.
- Nguyễn Hoàng vào cai quản vùng Thuận Hóa, thế lực mạnh lên nhanh chóng => Đàng Trong.
- Mâu thuẫn giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn ngày càng sâu sắc => Chiến tranh Trịnh – Nguyễn bùng nổ.
b) Diễn biến:
- Thế kỉ XVII, chiến tranh Trịnh – Nguyễn bùng nổ lịch sử gọi là chiến tranh Đàng Trong – Đàng Ngoài.
- Từ năm 1627 – 1672, họ Trịnh và Họ Nguyễn đánh nhau 7 lần.
- Không phân thắng bại, hai bên lấy sông Gianh làm ranh giới phân chia đất nước làm hai Đàng.
+ Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra.
+ Đàng Trong từ sông Gianh trở vào.
c) Hậu quả:
- Chia cắt đất nước, gây đau thương tổn hại cho dân tộc.
- Gây trở ngại cho giao lưu kinh tế, văn hoá làm suy giảm tiềm lực đất nước.
* Chính quyền ở Đàng Trong và Đàng Ngoài.
- Đàng Ngoài:
+ Họ Trịnh xưng vương, xây dựng vương phủ bên cạnh triều đình vua Lê.
+ Quyền lực nằm trong tay chúa Trịnh, vua Lê chỉ trên danh nghĩa => “vua Lê – chúa Trịnh”.
- Đàng Trong: họ Nguyễn truyền nối nhau cầm quyền => chúa Nguyễn.
Bạn tham khảo ở đây:
Tóm tắt nhanh Chiến tranh lạnh – Tóm tắt nhanh
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, giữa bối cảnh một Châu Âu bị tàn phá và suy yếu trong hệ thống quốc tế với vai trò lu mờ của Anh, Pháp và một nước Đức đổ nát trên bờ vực bị chia cắt, thì Mỹ và Liên Xô nổi lên với vai trò là siêu cường thế giới, giàu có và hùng mạnh. Cả hai quốc gia này nhanh chóng nắm quyền chi phối toàn bộ hệ thống chính trị quốc tế. Thế nhưng, Xô – Mỹ với hai ý thức hệ đối lập đã đứng trên hai chiến tuyến trái ngược nhau. Điều này khiến cho viễn cảnh hòa hợp thời hậu chiến trở nên xa vời. Một loạt các xung đột liên tiếp nổi lên, tuy không gây ra đối đầu trực tiếp nhưng lại là khởi đầu cho một giai đoạn lịch sử được biết đến với tên gọi “Chiến tranh Lạnh”.
Bernard Baruch, một nhà tài phiệt và là cố vấn cho nhiều đời tổng thống Mỹ, từ Woodrow Wilson tới Harry S. Truman, được cho là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Chiến tranh Lạnh. Ngày 16/04/1947, ông đã nhắc đến “Chiến tranh Lạnh” trong bài phát biểu trước Hạ viện bang Nam Carolina: “Đừng để chúng ta bị đánh lừa: chúng ta hiện đang ở giữa một cuộc Chiến tranh Lạnh”. Tháng 9 năm 1947, nhà báo nổi tiếng Walter Lippmann đã khiến cho thuật ngữ này được biết đến rộng rãi với bài viết “Cold War” đăng trên tờ New York Herald Tribune.
Theo đó, Chiến tranh Lạnh được hiểu là thời kì căng thẳng về mặt chính trị và quân sự giữa Mỹ và Liên Xô sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Yếu tố “chiến tranh” ở đây thể hiện sự đối đầu sâu sắc về mặt quyền lực và ý thức hệ giữa 2 nước; trong khi đó “lạnh” phản ánh việc Liên Xô và Mỹ không sử dụng vũ khí “nóng” (các loại vũ khí truyền thống) trong mối quan hệ kình địch này, mà thay vào đó là cuộc chạy đua vũ trang, nổi bật là vũ khí hạt nhân. Trên thực tế, Chiến tranh Lạnh là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử tồn tại hệ thống lưỡng cực, mà Mỹ và Liên Xô là đại diện; và mâu thuẫn giữa hai nước cũng đại diện cho mâu thuẫn giữa phe Tư bản chủ nghĩa (do Mỹ đứng đầu) và phe Xã hội chủ nghĩa (do Liên Xô khởi xướng). Chiến tranh Lạnh do đó tác động toàn diện tới tất cả các mặt trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia khi mà các nước tự xác định con đường đi của mình dựa trên sự định hình ý thức hệ.
Khởi đầu
Nhiều học giả cho rằng Chiến tranh Lạnh thực sự đã bắt đầu từ năm 1945, ngay sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Sau chiến tranh, các lực lượng mới hình thành là phe Tư bản chủ nghĩa và phe Xã hội chủ nghĩa– cả 2 đều ra sức gây ảnh hưởng lên các nước Thế giới thứ ba (cũng là lực lượng thứ ba hình thành sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai); tình trạng bị tàn phá và kiệt quệ của nhiều nước sau chiến tranh đã dẫn đến một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới và gia tăng xu hướng hợp tác kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh này, hai quốc gia mạnh nhất bước ra từ chiến tranh là Mỹ và Liên Xô đã gia tăng tranh giành khu vực ảnh hưởng trên thế giới. Hội nghị Yalta, sau đó là Hội nghị Hòa bình Paris và Hội nghị Postdam, đã cho ra đời luật bất thành văn: Đông Âu, Mông Cổ và CHDCND Triều Tiên thuộc khu vực ảnh hưởng của Liên Xô, phần còn lại của thế giới thuộc về phương Tây. Nhờ dòng chảy phát minh khoa học kỹ thuật trỗi dậy mạnh mẽ, 2 siêu cường thế giới lúc bấy giờ là Mỹ và Liên Xô đều có điều kiện để gia tăng sức mạnh về quân sự, vũ khí… và trở thành đối trọng lẫn nhau. Nếu không có sự tồn tại (về mối đe dọa hủy diệt) của vũ khí hạt nhân, xung đột giữa hai siêu cường có thể leo thang và dẫn đến một cuộc chiến thật sự, tương tự như hai cuộc chiến đã diễn ra trong thế kỉ 20. Do đó có thể nói hai siêu cường thường xuyên bị đặt trong tình trạng “bên miệng hố chiến tranh”.
Cũng có những ý kiến khác cho rằng Chiến tranh Lạnh bắt đầu vào năm 1947. Ngày 12/03/1947, tổng thống Mỹ khi đó là Harry S. Truman đã cho ra đời Học thuyết Truman, trong đó lần đầu tiên khẳng định Liên Xô là địch thủ và Mỹ sẵn sàng chống Liên Xô, cũng như trợ giúp những nơi bị Liên Xô và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản đe đọa. Đây được cho là cái cớ của chính quyền Washington lúc bấy giờ, khi người Mỹ nhận ra rằng sự biệt lập chính trị của Mỹ tại Châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là một sai lầm lớn, có thể đã tạo “khoảng trống” cho sự nổi dậy của Hitler và sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai là sự hiện diện của Liên Xô trên một nửa lục địa.
Năm 1948, Mỹ bắt đầu thực hiện Kế hoạch Marshall, viện trợ khoảng 17 tỷ USD cho các nước Tây Âu, giúp các nước này hồi phục sau chiến tranh. Kế hoạch Marshall bao gồm các biện pháp nhằm “ngăn chặn” sức mạnh Liên Xô qua hai giai đoạn: tái thiết Châu Âu “phi cộng sản” về mặt kinh tế chính trị, tăng khả năng để chống lại Liên Xô, đồng thời, duy trì sức mạnh hạt nhân và sự tin cậy vào việc bảo vệ các đồng minh Châu Âu của Hoa Kỳ. Nhóm G7 được thành lập bao gồm các quốc gia mạnh nhất của phương Tây nhằm chống lại Liên Xô và các nước thế giới thứ ba (vốn đã từng gây ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1913 nhằm gây áp lực cho phương Tây). Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO, thành lập năm 1949) cũng được cho là sự phản ứng của Mỹ và đồng minh trước ưu thế quân sự truyền thống của Liên Xô.
Ngoài sự khác biệt về ý thức hệ dẫn đến sự đối đầu Đông – Tây, cùng các xung đột lợi ích và ảnh hưởng như đã đề cập ở trên, “Thế giới thứ ba” cũng là một trong những nguyên nhân bắt nguồn Chiến tranh Lạnh. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc kéo theo sự cáo chung của hệ thống thực dân. Quá trình phi thực dân hóa diễn ra trong những năm 1950 – 1960 với kết quả là các quốc gia mới giành được độc lập đã nhanh chóng lọt vào tầm ngắm của hai siêu cường. Mỹ và Liên Xô quyết liệt tranh giành ảnh hưởng tại những quốc gia này như một cách để tăng cường sức mạnh ngoài các khu vực ảnh hưởng truyền thống.
Diễn biến
Chiến tranh Lạnh là một cuộc chiến kéo dài, với những giai đoạn căng thẳng leo thang và những giai đoạn hòa hoãn khá yên tĩnh, với một số cột mốc đáng nhớ như Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), các cuộc Khủng hoảng Berlin (1948, 1961), Khủng hoảng tên lửa Cuba (1962), Cuộc chiến Afghanistan (1979-1989)…
Năm 1946, lãnh tụ của Liên Xô khi đó là Joseph Stalin khẳng định sự thành công của chủ nghĩa cộng sản với việc Liên Xô đã lôi kéo được các quốc gia Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa của mình. Mỹ và các nước đồng minh ngay lập tức bác bỏ tuyên bố trên và đã thúc đẩy các hành động “giải cứu châu Âu khỏi Liên Xô cộng sản”, chính thức bắt đầu với bài diễn văn của tổng thống Mỹ Truman và Kế hoạch Marshall viện trợ cho Châu Âu. Đây cũng là giai đoạn bắt đầu hình thành các khối hiệp ước quân sự nhằm gia cố sức mạnh của mỗi bên. Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương NATO được thành lập năm 1949, bắt nguồn từ ý tưởng của bộ trưởng ngoại giao Canada Louis St. Laurent, về việc thành lập một khối các quốc gia dân chủ để giúp Châu Âu chống lại sự chi phối của Liên Xô. Tổ chức này bao gồm Mỹ và các thành viên đồng minh phương Tây, chính thức chấm dứt chính sách cô lập của Mỹ đối với các vấn đề Châu Âu.
Để đáp trả, Liên Xô cùng các nước đồng minh trong phe xã hội chủ nghĩa thành lập khối Hiệp ước Vacsava năm 1955. Sự ra đời của hai khối quân sự đã chính thức xác lập cục diện lưỡng cực và đánh dấu việc Chiến tranh Lạnh đã bao trùm thế giới. Cả hai khối đều duy trì những lực lượng quân sự lớn và các loại vũ khí hiện đại để bảo đảm khả năng đáp trả khi đối phương tấn công. Cuộc chạy đua vũ trang lớn nhất trong lịch sử bắt đầu trên các lĩnh vực tên lửa liên lục địa, công nghệ vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, khinh khí cầu gián điệp…) và quan trọng hơn cả là vũ khí hạt nhân – mối đe dọa lớn nhất và là nguyên nhân gây căng thẳng nhất cho cuộc Chiến tranh Lạnh. Chính quyền Mỹ đã tăng số lượng đầu đạn hạt nhân từ 1.000 (năm 1953) lên 18.000 (đầu năm 1961). Ở thời điểm này, Mỹ có số bom và đầu đạn hạt nhân lớn gấp tám lần Liên xô: 27.297 so với 3.332. Tuy nhiên, người Liên Xô lại thắng thế trong cuộc chạy đua vào không gian với việc phóng tàu Sputnik, vệ tinh nhân tạo đầu tiên, sau đó là máy bay không người lái.
Trong thời kỳ căng thẳng này, “chiến trường” của Chiến tranh Lạnh có thể được phân chia thành: châu Âu và các vùng “ngoại vi” (bao gồm các nước Thế giới thứ ba vừa giành được độc lập tại Châu Á, châu Phi và Trung Đông). Cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đã đánh dấu sự thay đổi trọng tâm của Chiến tranh Lạnh, từ Châu Âu sang Đông Á. Lúc này, các cuộc chiến ủy nhiệm ở Thế giới thứ ba đã trở thành vũ đài quan trọng cho cuộc cạnh tranh giữa hai siêu cường. Cả hai đều cố gắng thu hút thêm đồng minh bằng những lời hứa hẹn viện trợ về tài chính, quân sự, ngoại giao… Đỉnh cao của giai đoạn căng thẳng là vụ khủng hoảng Berlin lần 2 (1961) sau sự kiện Liên Xô bắn hạ máy bay gián điệp U2 của Mỹ.
Trong khi đó, vấn đề nước Đức vẫn trong tình trạng bế tắc – phía Mỹ không chấp nhận rút quân khỏi Tây Berlin theo yêu cầu của Liên Xô. Quân đội cả 2 bên đã được đặt trong tình trạng báo động, bức tường Berlin được xây dựng vào ngày 12/08/1961. Tuy nhiên, do lo ngại chiến tranh, cả hai bên đều chấp nhận duy trì hiện trạng, cho đến khi xảy ra cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (1962) với sự kiện Vịnh con lợn, được cho là có khả năng gây nên Chiến tranh thế giới lần thứ ba với vũ khí hạt nhân. Sau sự kiện này, lãnh đạo hai nước đã thống nhất đã cấm các vụ thử hạt nhân trong không trung và dưới mặt nước sau năm 1962.
Chiến tranh Lạnh đi vào giai đoạn hòa hoãn với nhiều sự thay đổi chính trị của các bên tham chiến (Mỹ bất đồng với Pháp, Đức và Nhật thu hẹp khoảng cách kinh tế; Liên Xô mâu thuẫn với Trung Quốc, gặp nhiều cấn đề nội bộ trong phe xã hội chủ nghĩa), đặc biệt sau “cú sốc” khủng hoảng dầu mỏ 1973. Những mối lo về sự mở rộng và phổ biến vũ khí hạt nhân, vấn đề ngân sách đầu tư cho quốc phòng, cộng với tình hình kinh tế bất ổn được cho là những nguyên nhân chính tạo nên và duy trì giai đoạn hòa hoãn này. Tổng thống Mỹ Richard Nixon và lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev đã ký hiệp ước SALT1 (1972) để hạn chế sự phát triển các loại vũ khí chiến lược, bên cạnh các hiệp ước khác như Hiệp ước cấm thử hạn chế LTB (1963), Hiệp ước không gian vũ trụ OST (1967), Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân NPT (1968), Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo ABM (1972). Hai bên cũng đã tiến hành nhiều chuyến viếng thăm và làm việc song phương, thúc đẩy giải quyết vấn đề nước Đức, giải trừ quân bị ở Trung Âu.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, sự cạnh tranh giành ảnh hưởng tại các nước thứ ba giàu tài nguyên, đặc biệt tại khu vực Trung Đông và Nam Phi, vẫn tiếp tục. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên cuộc chiến Afghanistan của Liên Xô (1979) – làm bùng lên giai đoạn đối đầu trở lại của 2 siêu cường, được ví như “Chiến tranh Lạnh thứ hai”.
Liên Xô ủng hộ chính phủ Afghanistan theo phe cộng sản, trong khi Mỹ, Pakistan và các quốc gia Hồi giáo khác ủng hộ phe đối lập muốn lật đổ chính quyền. Tổng thống Mỹ khi đó là Jimmy Carter đã cho rằng hành động triển khai quân đến Afghanistan của Liên Xô là “mối đe dọa nghiêm trọng nhất tới hòa bình kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai”.
Đồng thời, mối quan ngại về việc Liên Xô đưa một số lượng quân đông đảo (lần đầu tiên sử dụng trực tiếp Hồng Quân bên ngoài Đông Âu) đến gần khu vực Vùng Vịnh nhiều dầu mỏ cũng khiến căng thẳng gia tăng trở lại, thời kỳ hòa hoãn chấm dứt. Gian đoạn đối đầu trở lại cũng chứng kiến các cuộc khủng hoảng giữa hai bên tại Ba Lan (1979-1981), khủng hoảng tên lửa tầm trung ở châu Âu (1983-1984). Tuy nhiên, giai đoạn này cũng là lúc nền kinh tế Liên Xô gặp nhiều khó khăn, mà một trong những nguyên nhân chính là phí tổn quốc phòng. Cuộc chiến tại Afghanistan lại không đem lại hiệu quả khiến Liên Xô bị sa lầy tại đây trong suốt 10 năm. Ngày 15/05/1988, Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan. Căng thẳng Đông-Tây lại hạ nhiệt.
Kết thúc
Mikhail Gorbachev – Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô lên cầm quyền vào năm 1985, được xem là một trong những nhân tố thúc đẩy sự chấm dứt Chiến tranh lạnh. Thập niên 1980, nền kinh tế Liên Xô rơi vào tình trạng trì trệ do dầu mỏ thế giới sụt giá, nguồn thu ngoại tệ của nước này cũng sút giảm và quan trọng hơn cả là những khoản chi phí khổng lồ cho phát triển vũ khí và quốc phòng. Gorbachev đã bắt đầu những cuộc cải cách của mình nhằm vực dậy kinh tế đất nước với nhiều kế hoạch táo bạo, một trong số đó là ngừng cuộc chạy đua vũ trang với phương Tây để tập trung phát triển kinh tế nội địa, tiết kiệm ngân sách và tái định hướng đầu tư các nguồn tài nguyên.
Kế hoạch cải tổ của Gorbachev cũng cho phép tăng cường tiếp xúc, quan hệ giữa công dân Liên Xô và công dân các nước phương Tây. Đây là một trong những tiền đề cho Hiệp ước kiểm soát vũ khí START I được ký kết giữa Liên Xô và Mỹ vào năm 1985. Liên Xô sau khi kết thúc việc rút quân khỏi Afghanistan năm 1989 đã đồng ý thống nhất nước Đức vào năm 1990, đồng thời tuyên bố không tiếp tục hỗ trợ và can thiệp vào các quốc gia đồng minh Đông Âu. Chiến tranh Lạnh hạ nhiệt nhanh chóng, và chính thức kết thúc khi Liên Xô tan rã năm 1991, do Gorbachev không thể kiểm soát được những cải tổ mà ông đã tiến hành.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, Chiến tranh Lạnh kết thúc vào thời điểm này là điều hoàn toàn có thể đoán trước. Liên Xô thật sự đã không thể tiếp tục canh tranh với Mỹ trong cuộc đối đầu Đông – Tây kéo dài hơn 40 năm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết cục này của Liên Xô:
Thứ nhất, ngay từ khi bắt đầu Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã chiếm ưu thế hơn Liên Xô. Ví dụ, nếu như Mỹ mất 400.000 người trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thì Liên Xô thiệt hại đến 27 triệu nhân mạng. Nền kinh tế Mỹ hưởng lợi từ cuộc chiến tranh này, trong khi kinh tế Liên Xô hầu như bị hủy hoại.
Thứ hai, Liên Xô không thể theo đuổi những chi phí khổng lồ trong cuộc chạy đua vũ trang, đặc biệt khi Tổng thống Mỹ Reagan ra lệnh tăng cường khả năng quân sự của nước này những năm 1980.
Thứ ba, đề xuất xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa “Chiến tranh giữa các vì sao” của Tổng thống Reagan đã chuyển dịch cuộc chạy đua vũ trang sang một cuộc đua mới về công nghệ hiện đại – điều mà Liên Xô không có lợi thế. Cùng với những bất ổn kinh tế trong nước, Liên Xô đã bị lung lay, và cuối cùng là sụp đổ. Cuộc chơi kết thúc và Mỹ, sau một đêm, đã trở thành siêu cường duy nhất của thế giới. Di sản để lại của Chiến tranh Lạnh là hàng triệu người chết trong các cuộc chiến tranh ủy nhiệm trên khắp thế giới. Chi phí quân sự Mỹ trong thời kỳ chạy đua vũ trang được ước tính đến 8.000 tỷ USD và tỉ lệ chi phí quốc phòng trên tổng GDP của Liên Xô còn cao hơn rất nhiều so với Mỹ.
Có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về Chiến tranh Lạnh. Các nhà sử học “chính thống” cho rằng Liên Xô cần chịu trách nhiệm về cuộc chiến này cùng tham vọng mở rộng ảnh hưởng ở Châu Âu. Trong khi đó, theo các nhà nghiên cứu khác lại cho rằng hành động của Liên Xô là nỗ lực xây dựng hệ thống phòng vệ khu vực Đông Âu, trong khi Mỹ cố gắng kiến thiết một hệ thống quốc tế có lợi cho mình; và Chiến tranh Lạnh chỉ là cái cớ cho sự thống trị của Mỹ dựa trên “mối đe dọa” Xô Viết.
Khác với quan điểm cho rằng bản chất Chiến tranh Lạnh là đối kháng và căng thẳng, có tư tưởng cho rằng Chiến tranh Lạnh thật ra cũng đem lại một số lợi ích nhất định cho cả hai bên. Cuộc chiến “không tiếng súng” này cho phép cả Mỹ và Liên Xô giải quyết vấn đề nước Đức, bằng cách đóng băng các diễn biến chính trị/ xã hội ở châu Âu, cả ở phía Đông và phía Tây. Sự tồn tại của Chiến tranh Lạnh cũng hữu ích trong việc duy trì “trật tự hạt nhân” giữa các siêu cường và những vệ tinh của mình, cũng như giữa những quốc gia hạt nhân và các quốc gia phi hạt nhân.
Cuối cùng, xét ở một khía cạnh nào đó, Chiến tranh Lạnh cũng giúp củng cố một số lợi ích quốc gia. Ví dụ, với Mỹ, cuộc chạy đua vũ trang giúp gia tăng sức mạnh ngành công nghiệp quân sự, giúp Mỹ “hợp pháp hóa” tham vọng can dự ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để củng cố an ninh quốc gia và nâng cao vai trò của tổng thống. Còn ở bên kia “Bức màn sắt”, Chiến tranh Lạnh giúp Liên Xô “hợp pháp hóa” quân sự trong xã hội dân sự và đẩy mạnh phát triển công nghiệp nặng trong một thời gian dài.
Nhà Trần đã thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích sản xuất nhằm khôi phục và phát triển kinh tế:
- Đẩy mạnh công cuộc khai hoang, mở rộng diện tích sản xuất, đắp đê phòng lụt, củng cố đê điều: đặt cơ quan hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách việc đê điều ở các bộ, phủ, đắp đê giữ nước gọi là đê quai vạc (đắp từ đất nguồn cho tới bờ biển).
- Các vương hầu, quý tộc tiếp tục chiêu tập dân nghèo khai hoang, lập điền trang.
- Ruộng đất công, làng xã chia cho nông dân cày cấy và thu thuế.
- Ban thái ấp cho các quý tộc, vương hầu.
- Ruộng đất tư hữu của địa chủ ngày càng nhiều.
Tham khảo
Sau khi giành được độc lập, các nước châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội và đã thu được những thành tựu bước đầu song chưa đủ để thay đổi căn bản bộ mặt của châu lục này.
- Về kinh tế:
- Nhiều nước vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, đói nghèo.
- Nợ nần và phụ thuộc vào nước ngoài,…
-Về xã hội: ngày càng khó khăn, không ổn định:
- Xung đột về sắc tộc và tôn giáo, đảo chính, nội chiến diễn ra liên miên.
- Bệnh tật và mù chữ.
- Sự bùng nổ dân số,…
=> Đây đều là những thách thức lớn đối với châu Phi. Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU) thành lập tháng 5/1963, đến năm 2002 đổi thành Liên minh châu Phi (AU), đang triển khai nhiều chương trình phát triển của châu lục. Con đường đi tới tương lai tươi sáng của châu Phi còn phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ.
Tham khảo
* Về kinh tế:
- Nhiều nước vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, đói nghèo.
- Nợ nần và phụ thuộc vào nước ngoài,…
* Về xã hội: ngày càng khó khăn, không ổn định:
- Xung đột về sắc tộc và tôn giáo, đảo chính, nội chiến diễn ra liên miên.
- Bệnh tật và mù chữ.
- Sự bùng nổ dân số,…
=> Đây đều là những thách thức lớn đối với châu Phi. Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU) thành lập tháng 5/1963, đến năm 2002 đổi thành Liên minh châu Phi (AU), đang triển khai nhiều chương trình phát triển của châu lục. Con đường đi tới tương lai tươi sáng của châu Phi còn phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ.
Sau khi giành được độc lập, các nước châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội và đã thu được những thành tựu bước đầu song chưa đủ để thay đổi căn bản bộ mặt của châu lục này.
* Về kinh tế:
- Nhiều nước vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, đói nghèo.
- Nợ nần và phụ thuộc vào nước ngoài,…
* Về xã hội: ngày càng khó khăn, không ổn định:
- Xung đột về sắc tộc và tôn giáo, đảo chính, nội chiến diễn ra liên miên.
- Bệnh tật và mù chữ.
- Sự bùng nổ dân số,…
=> Đây đều là những thách thức lớn đối với châu Phi. Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU) thành lập tháng 5/1963, đến năm 2002 đổi thành Liên minh châu Phi (AU), đang triển khai nhiều chương trình phát triển của châu lục. Con đường đi tới tương lai tươi sáng của châu Phi còn phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ.
Tham khảo:
* Về kinh tế:
- Nhiều nước vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, đói nghèo.
- Nợ nần và phụ thuộc vào nước ngoài,…
* Về xã hội: ngày càng khó khăn, không ổn định:
- Xung đột về sắc tộc và tôn giáo, đảo chính, nội chiến diễn ra liên miên.
- Bệnh tật và mù chữ.
- Sự bùng nổ dân số,…
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 - 43):
Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, thuộc dòng dõi Hùng Vương. Tháng 3 năm 40 sau Công nguyên, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát trên sông Hồng, thuộc huyện Phúc Thọ, Hà Tây ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của hai Bà, nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành một phong trào rộng lớn, từ miền xuôi đến miền núi, bao gồm người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành được thắng lợi, nền độc lập dân tộc được phục hồi. Trưng Trắc được suy tôn làm vua (Trưng Vương) đóng đô ở Mê Linh, giữ được quyền tự chủ trong 3 năm.
- Khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248):
Là đỉnh cao của phong trào chống xâm lược của nhân dân ta thế kỷ II - III. Khởi nghĩa nổ ra trong lúc bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh đã củng cố được ách thống trị trên đất nước ta và đang đẩy mạnh dã tâm đồng hóa dân tộc ta.
Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh, em ruột của Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực ở Quân An, quận Cửu Chân (huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa). Năm 19 tuổi, bà cùng anh tập hợp nghĩa sĩ lên đỉnh núi Nưa, mài gươm, luyện võ, phất cờ khởi nghĩa. Nhân dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân đã nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu, đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Nhà Ngô lo sợ phải đưa thêm 8.000 quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa. Bà Triệu Thị Trinh đã hy sinh trên núi Tùng (Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa).
- Khởi nghĩa Lý Bí (năm 542)
Giữa thế kỷ VI, phong trào khởi nghĩa chống ngoại xâm của nhân dân nổ ra khắp nơi, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí dẫn tới thành lập nước Vạn Xuân. Lý Bí quê ở Long Hưng, tỉnh Thái Bình. Mùa xuân năm 542 cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo nổ ra và không đầy 3 tháng đã quét sạch bè lũ đô hộ nhà Lương. Mùa xuân năm 544 Lý Bí tuyên bố thành lập nước, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Ông lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Nam đế (vua nước Nam). Ít năm sau, cuộc kháng chiến bảo vệ chủ quyền đất nước của Lý Nam Đế thất bại, ông bị bệnh mất tháng 4-548.
Khởi nghĩa Phùng Hưng (766 - 791)
Phùng Hưng là hào trưởng đất Đường Lâm (xã Cao Lâm, Ba Vì, Hà Tây) đã phát động cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ triều nhà Đường. Ba anh em Phùng Hưng, Phùng Hải, Phùng Dĩnh lãnh đạo nghĩa quân nổi dậy làm chủ Đường Lâm và đánh chiếm một vùng đất rộng lớn, xây dựng thành căn cứ đánh giặc. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 20 năm, có thời gian đã chiếm được thành Tống Bình (Hà Nội). Ông được tôn là Bố Cái Đại Vương.
1. Khởi nghĩa Phùng Hưng:
a) Diễn biến:
- Đứng trước nỗi khổ của nhân dân bởi ách thống trị của Cao Chính Bình.
b) Diễn biến:
- Năm 776 Phùng Hưng cùng em là Phùng Hải họp quân khởi nghĩa ở Đường Lâm.
- Ít lâu sau, Phùng Hưng kéo quân về bao vay phủ Tống Bình. Cao Chính Bình rút vào thành cố thủ, sinh bệnh rồi chết.
c)Kết quả:
- Phùng Hưng chiếm được thành, sắp đặt việc cai trị.
- Phùng Hưng mất, Phùng An lên nối nghiệp cha. Năm 791, nhà Đường đem quân sang đàn ác, Phùng An ra hàng.
2. Khởi nghĩa Lí Bí:
a) Nguyên nhân:
- Do chính sách thống trị tàn bạo của nhà Lương.
b) Diễn biến:
- Năm 542, Lí Bí dựng cờ khởi nghĩa , được các hào kiệt và nhân dân khắp nơi trưởng ứng.
- Chưa đầy 3 tháng nghĩa quân đã chiếm được hầu hết các quận, huyên; thứ sử Tiên Sư hoảng sợ bỏ chạy về Trung Quốc.
- Tháng năm 542, quân Lương huy động quân sang đàn ác, nghĩa quân đánh bại quân Luong, giải phóng Hoàng Châu.
- Đầu năm 543, nhà Lương tấn công lần 2, ta đánh địch ở Hợp Phố.
c) Kết quả:
- Năm 544, Lí Bí lên ngôi hoàng đế ( Lý Nam Đế ), đặt tên nước là Vạn Xuân.
- Dựng kinh đô oqr cửa sông Tô Lịch.
- Lý Nam Đế thành lập triều đình mới với 2 ban: văn, võ.
3. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
a) Nguyên nhân;
- Do chính sách thống trị tàn bạo của triều đại phong kiến phương Bắc.
- Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị Tô Định giết chết.
b) Diễn biến;
- Mùa xuân năm 40 ( tháng 3 dương lịch ). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn ( Hà Nội ), nghĩa quân nhanh chóng làm chủ Mê Linh rồi tìm hiểu Cổ Loa, Luy Lâu.
- Tô Định hốt hoảng bỏ thành lẻn trốn về Nam Hả, quân Hán ở các quận khác bị đánh tan.
c) Kết quả:
- Cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi.
4. Khởi nghĩa Bà Triệu:
a) Nguyên nhân:
- Chính sách đô hộ, đồng hóa rất tàn bạo của triều đại nhà Ngô.
b) Diễn biền:
- Năm 248 cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Phú Điền ( Hậu Lộc - Thanh Hóa ).
- Nghĩa quân đánh phá các thành ấp của nhà Ngô ở quận Cửu Chân, từ đó đánh ra khắp Giao Châu.
- Nhà Ngô cử Lục Dận đem 6000 quân sang Giao Châu, Lục Dận vừa đánh vừa mua chuột.
c) Kết quả:
- Cuộc khởi nghĩa bị dàn ác.
- Bà Triệu hi sinh trên núi Tùng ( Phú Điền - Hậu Lộc - Thanh Hóa ).
* Giai đoạn 1945-1954 :
- Đầu tháng 10-1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược và thống trị Campuchia. Đảng Cộng sản Đông Dương (từ năm 1951 là Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia) đã lãnh đạo nhân dân Campuchia tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lực lượng kháng chiến ngày càng trưởng thành.
- Ngày 9-11-1953, do cuộc vận động ngoại giao của Quốc vương Xihanúc, chính phủ Pháp đã ký hiệp ước "trao trả độc lập cho Campuchia". Tuy vậy, quân Pháp vẫn chiếm đóng Campuchia.
- Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải kí hiệp định Giơnevơ về Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào, Việt Nam.
* Giai đoạn 1954-1970 :
- Chính phủ Xihanúc thực hiện đường lối hoà bình, trung lập, không tham gia bất cứ khối liên minh quân sự hoặc chính trị nào, tiếp nhận viện trợ từ mọi phía, không có điều kiện ràng buộc.
- Sau cuộc đảo chính lật đổ Xihanúc ngày 18-3-1970 của thế lực tay sai Mĩ, Campuchia bị kéo vào quĩ đạo cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mĩ trên bán đảo Đông Dương.
* Giai đoạn 1970-1975:
- Cuộc kháng chiến chống Mĩ và tay sai của nhân dân Campuchia, với sự giúp đỡ của bộ đội tình nguyện Việt Nam phát triển nhanh chóng.
- Từ tháng 9-1973, lực lượng vũ trang Campuchia đã chuyển sang tấn công, bao vây thủ đô Phnôm Pênh và các thành phố khác.
- Mùa xuân 1975, quân dân Campuchia mở cuộc tấn công vào sào huyệt cuối cùng của địch. Ngày 17-4-1975, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Campuchia kết thúc thắng lợi.
* Giai đoạn 1975-1979:
- Ngay sau đó, nhân dân Campuchia lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống tập đoàn Khơme đỏ do Pôn Pốt cầm đầu phản bội cách mạng, thi hành chính sách diệt chủng, tàn sát hàng triệu người dân vô tội.
- Ngày 3-12-1978, Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, quân và dân Campuchia nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng khỏi chế độ Khơme đỏ diệt chủng, Campuchia bước vào thời kì hồi sinh, xây dựng lại đất nước.
-> Tham khảo .
Tham khảo
1. Nguyên nhân
- Tại Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng xây dựng cơ nghiệp của họ Nguyễn, trở thành thế lực cát cứ ở Đàng Trong, dần tách khởi sự lệ thuộc với họ Trịnh ở Đàng Ngoài. ⟹ Năm 1627, lo sợ thế lực họ Nguyễn lớn mạnh, chúa Trịnh đem quân đánh vào Thuận Hóa, chiến tranh Trịnh - Nguyễn bùng nổ.
Tính chất: Phi ngĩa vì là một chiến tranh tranh giành quyền lực và đẻ lại hậu quả lâu dài cho đất nước.
Hậu quả Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn:- Đất nước bị chia cắt thành hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài kéo dài suốt hai thế kỉ. Nhân dân hai miền li tán, đói khổ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước.
+ Ở Đàng Ngoài: “Chúa Trịnh” nắm mọi quyền hành, vua Lê chỉ là bù nhìn. Sử gọi là "vua Lê - chúa Trịnh".
2.
Bảng tóm tắt về tình hình kinh tế, văn hóa nước ta ở các thế kỉ XVII - XVIII:
Kinh tế | * Nông nghiệp: - Đàng Ngoài: nông nghiệp trì trệ, vua quan không quan tâm đến ruộng đất. - Đàng Trong: rất phát triển, tổ chức khai hoang, cấp nông cụ,… * Thủ công nghiệp: - Ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều phát triển. - Xuất hiện nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng như làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội), dệt La Khê (Hà Nội), rèn sắt Nho Lâm (Nghệ An),… * Thương nghiệp: - Các chợ làng, chợ huyện được xây dựng, việc giao lưu buôn bán với các thương nhân châu Á, châu Âu được đẩy mạnh. - Xuất hiện thêm nhiều thành thị. |
Văn hóa | * Tôn giáo: - Từ thế kỉ XVI, xuất hiện đạo Thiên Chúa giáo. * Chữ viết: - Thế kỉ XVII, chữ Quốc ngữ được ra đời. * Văn học và nghệ thuật: - Văn học: Xuất hiện nhiều tác phẩm chữ Nôm, tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ,... Văn học dân gian có nhiều thể loại. - Nghệ thuật: phát triển đa dạng như chèo tuồng, hát ả đào,... |
* Điểm mới:
- Kinh tế công - thương nghiệp phát triển mạnh mẽ.
- Thiên Chúa giáo được truyền bá vào nước ta.
- Chữ Quốc ngữ ra đời.
- Nhiều loại hình nghệ thuật dân gian ra đời và phát triển,...
1. Nguyên nhân
- Tại Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng xây dựng cơ nghiệp của họ Nguyễn, trở thành thế lực cát cứ ở Đàng Trong, dần tách khởi sự lệ thuộc với họ Trịnh ở Đàng Ngoài. ⟹ Năm 1627, lo sợ thế lực họ Nguyễn lớn mạnh, chúa Trịnh đem quân đánh vào Thuận Hóa, chiến tranh Trịnh - Nguyễn bùng nổ.
Tính chất: Phi ngĩa vì là một chiến tranh tranh giành quyền lực và đẻ lại hậu quả lâu dài cho đất nước.
Hậu quả Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn:
- Đất nước bị chia cắt thành hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài kéo dài suốt hai thế kỉ. Nhân dân hai miền li tán, đói khổ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước.
+ Ở Đàng Ngoài: “Chúa Trịnh” nắm mọi quyền hành, vua Lê chỉ là bù nhìn. Sử gọi là "vua Lê - chúa Trịnh".
2.
Bảng tóm tắt về tình hình kinh tế, văn hóa nước ta ở các thế kỉ XVII - XVIII:
Kinh tế | * Nông nghiệp: - Đàng Ngoài: nông nghiệp trì trệ, vua quan không quan tâm đến ruộng đất. - Đàng Trong: rất phát triển, tổ chức khai hoang, cấp nông cụ,… * Thủ công nghiệp: - Ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều phát triển. - Xuất hiện nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng như làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội), dệt La Khê (Hà Nội), rèn sắt Nho Lâm (Nghệ An),… * Thương nghiệp: - Các chợ làng, chợ huyện được xây dựng, việc giao lưu buôn bán với các thương nhân châu Á, châu Âu được đẩy mạnh. - Xuất hiện thêm nhiều thành thị. |
Văn hóa | * Tôn giáo: - Từ thế kỉ XVI, xuất hiện đạo Thiên Chúa giáo. * Chữ viết: - Thế kỉ XVII, chữ Quốc ngữ được ra đời. * Văn học và nghệ thuật: - Văn học: Xuất hiện nhiều tác phẩm chữ Nôm, tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ,... Văn học dân gian có nhiều thể loại. - Nghệ thuật: phát triển đa dạng như chèo tuồng, hát ả đào,... |
* Điểm mới:
- Kinh tế công - thương nghiệp phát triển mạnh mẽ.
- Thiên Chúa giáo được truyền bá vào nước ta.
- Chữ Quốc ngữ ra đời.
- Nhiều loại hình nghệ thuật dân gian ra đời và phát triển,...
Tình hình kinh tế , xã hội , văn hóa thời Trần sau chiến tranh.
Kinh tế:
a) Nông nghiệp
- Nông nghiệp được phục hồi và phát triển nhanh chóng nhờ chính sách khuyến khích sản xuất, mở rộng diện tích trồng trọt của nhà Trần.
- Khuyến khích phát triển nông nghiệp: chiêu dân, khai hoang.
- Ruộng đất: gồm 2 loại ruộng công ở các làng xã và ruộng tư là các điền trang, thái ấp.
b) Thủ công nghiệp
- Thủ công nghiệp nhà nước: được mở rộng gồm nhiều ngành nghề khác nhau như làm đồ gốm tráng men, dệt vài lụa, chế tạo vũ khí, đóng thuyền,...
- Thủ công nghiệp dân gian: phổ biến và phát triển, nổi bật là nghề làm đồ gốm, rèn sắt, đúc đồng làm giấy, khắc bản in, rèn, …
- Các làng nghề, phường nghề ra đời. Các mặt hàng thủ công ngày càng tốt, đẹp hơn do trình độ kĩ thuật được nâng cao.
c) Thương nghiệp
- Nội thương: Phát triển.
+ Nhiều chợ, đô thị, thương cảng; xuất hiện nhiều thương nhân.
+ Thăng Long là trung tâm kinh tế khá sầm uất của cả nước, có nhiều phường thủ côn, nhiều chợ lớn thu hút người buôn bán ở các nơi.
- Ngoại thương: Buôn bán với nước ngoài được đẩy mạnh qua cảng Vân Đồn.
Xã hội
Xã hội ngày càng phân hoá thành các tầng lớp xã hội:
- Tầng lớp vương hầu, quý tộc: có nhiều ruộng đất (điền trang, thái ấp). Là tầng lớp có nhiều đặc quyền, đặc lợi, nắm giữ các chức vụ chủ yếu trong bộ máy chính quyền ở triều đình và các địa phương.
- Địa chủ: là những người giàu có trong xã hội, có nhiều ruộng đất tư cho nông dân cày cấy để thu tô nhưng không thuộc tầng lớp quý tộc.
- Nông dân: cày cấy ruộng công của nhà nước ở các làng xã. Là tầng lớp bị trị đông đảo nhất trong xã hội. Bộ phân tầng lớp nông dân tá điền lĩnh canh ruộng đất và nộp tô cho địa chủ đông hơn trước.
- Tầng lớp thợ thủ công, thương nhân: chiếm một tỉ lệ nhỏ trong cư dân, nhưng cũng ngày một đông hơn do sự phát triển của các nghề thủ công và việc buôn bán được đẩy mạnh.
- Nông nô, nô tì: họ bị lệ thuộc và bị quý tộc bóc lột nặng nề hơn nông dân tá điền. Nhiều quý tộc có tới hàng trăm nông nô, nô tì. Con cái của nô tì cũng là nô tì của chủ. Nô tì được đưa vào sản xuất thì chuyển thành nông nô.
Văn hoá
- Tín ngưỡng cổ truyền: thờ cúng tổ tiên, thờ các anh hùng dân tộc, những người có công với làng, nước,... vẫn phổ biến trong nhân dân và có phần phát triển hơn trước.
- Tín ngưỡng, tôn giáo:
+ Đạo Phật: phát triển nhưng không bằng thời Lý. Nhiều người đi tu, chùa chiền mọc lên ở khắp nơi.
+ Nho giáo: phát triển mạnh hơn, nhiều nhà Nho được trọng dụng: Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Chu Văn An.
- Sinh hoạt văn hóa: ca hát, nhảy múa, chèo tuồng, múa rối, đấu vật, cướp cầu, đua thuyền,... rất phổ biến và phát triển.
- Tập quán sống giản dị như đi chân đất, quần áo đơn giản rất phổ biến. Nhưng trong đó là một dân tộc thượng võ, yêu quê hương đất nước và trọng nhân nghĩa.
=> Văn hóa phong phú, đa dạng mang đậm tính dân tộc.
Tại sao văn học, giáo dục , khoa học thời Trần phát triển ?
- Văn hoá, khoa học, giáo dục thời Trần phát triển là do những chính sách quan tâm đúng đắn cùng với các biện pháp cụ thể của nhà nước.
- Nền kinh tế phát triển, xã hội ổn định có điều kiện phát triển khoa học, giáo dục trong cả nước.
- Lòng tự hào, tự cường dân tộc được củng cố và nâng cao sau cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm thắng lợi.