Bài 1: Hyax cho biết những bieur hiện của giá trị nhân đạo ở truyện ngắn ''Sống chết mặc bay'' của Phạm Duy Tốn.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
* Giá trị nhân đạo:
- Thơ chữ Hán của Nguyễn Du như nhật ký cuộc đời tác giả, là bức chân dung tự họa về một con người có tấm lòng nhân đạo bao la, sâu sắc. Trái tim nhân đạo của đại thi hào thể hiện ở lòng thương người và niềm tự thương.
+ Với niềm thương cảm sâu sắc, Nguyễn Du hướng về những số phận đau khổ, bất hạnh.
+ Viết về những con người có tài năng, có khí tiết thanh cao, Nguyễn Du vừa thể hiện niềm cảm thương, vừa trân trọng, ngưỡng mộ.
+ Nguyễn Du cảm nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với số phận tài hoa mà bi kịch, do vậy từ lòng thương người, ông trở về với niềm tự thương.
- Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo với tầng lớp quan lại gian ác, những kẻ lưu manh, vô lại bất nhân, sự khuynh đảo của thế lực đồng tiền,… Trong xã hội ấy, những người lương thiện, những thân phận nhỏ bé bị chà đạp, dập vùi.
- Ông thể hiện tiếng nói đồng cảm với bi kịch, đồng tình với những khát vọng chân chính của con người: khát vọng tình yêu, khát vọng
* Giá trị hiện thực:
- Tái hiện lên hoàn cảnh sống của những số phận cơ cực, hẩm hiu (ông già mù hát rong, người mẹ dắt con đi ăn xin,…), những con người sắc tài mà bi kịch (người phụ nữ gảy đàn đất Long Thành, nàng Tiểu Thanh;…). => những bất công của xã hội, những cảnh đời trái ngược.
Dàn ý nhé.
Mở bài:
- Giá trị nhân đạo là gì?.
+ Dẫn dắt ý kiến trên vào bài.
Thân bài:
- Giới thiệu truyện ngắn Lão Hạc.
- Làm rõ số phận của người nông dân trước cách mạng tháng 8:
+ Qua số phận của Lão Hạc:
-> nghèo khổ, khốn khó của người cố nông nghèo không bị tha hóa dù cuộc sống có đẩy bản thân đến bước đường cùng như thế nào.
-> là một người cố nông nghèo mất vợ sớm, không đủ tiền cho con trai cưới vợ.
-> túng quẫn, tài sản chỉ vỏn vẹn mấy thước đất.
+ Qua phẩm chất đáng quý của Lão Hạc:
-> là một người cha vô cùng yêu thương con qua chi tiết không muốn sống vì sợ là gánh nặng cho con.
-> là người vô cùng yêu thương động vật qua chi tiết Lão rất cưng cậu Vàng, đau lòng hối hận day dứt khôn nguôi vì trót lừa một con vật đã tin tưởng mình.
-> sợ làm phiền đến hàng xóm, chỉ nhờ đến chỗ thân cậy nhất là ông giáo lo ma chay cho mình và đưa tiền cho con mình.
- Tổng kết:
+ Truyện ngắn "Lão Hạc" thể hiện thật cảm động cuộc sống cùng quẫn và khẳng định bản chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.
- Vì sao giá trị nhân đạo của con người là đồng .... quý?
+ Bởi đó là sự chia sẻ, sự cảm thân, sự yêu thương của mình dành cho những con người cùng khổ.
+ Bởi ta phải hiểu được ông cha ta đã sống như thế nào, đã khổ ra sao để biết thương lấy lịch sử nước nhà để biết cố gắng cống hiến cho đất nước mình.
Kết bài:
- Khẳng định lại:
+ Qua "Lão Hạc", phẩm chất và của người nông dân được hiện lên vô cùng thực tế, mang giá trị hiện thực rất cao.
Đề 1:
“ Sống chết mặc bay” được coi là một trong những sáng tác mở đầu khuynh hướng văn học hiện thực ở nước ta về đề tài trong cuộc sống thực của xã hội, đó là cảnh hàng năm người nông dân ở đồng bằng Bắc bộ phải đương đầu với sự tàn phá dữ dội của thiên nhiên để bảo vệ cuộc sống chính mình. Cảnh dân phu hộ đê, chống với cơn lũ được tác tác giả miêu tả cụ thể. Bọn quan lai thường được mệnh danhlà phụ mẫu của dân, bản chất thối nát, mất cả lương tri của bọn chúng, được ngòi bút hiện thực phơi bày, tố cáo. Thông qua hình tượng nhân vật quan huyện, tác giả đã cho người đọc hình dung được bộ mặt thật của bọn quan lại đương thời. Tính cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét từ diện mạo, dáng điệu, ngôn ngữ phù hợp với tâm lí, tính cách của một tên quan hống hách, táng tận lương tâm. Kết cấu của truyện xây dựng trên sự phát triển của hai cảnh đối lập để làm nổi bật chủ đề. Bút pháp miêu tả không phải là bút pháp tượng trưng, ước lệ mà là cách miêu tả cụ thể,chi tiết, sống động.
Đề 2:
Tham Khảo dàn ý rồi làm bài văn theo ý mình nhé !!
1. Mở bài
Giới thiệu về tác phẩm."Chuyện người con gái Nam Xương" có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.2. Thân bài
* Giá trị hiện thực:
- Bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến:
Xuất thân bình dân, nết na, thùy mị, "tư dung tốt đẹp"Chồng đi lính, một mình quán xuyến nhà cửa, lo cho mẹ chồng, cho con, mẹ chồng chết, "lo liệu ma chay như cha mẹ đẻ".→ Người phụ nữ đẹp người đẹp nết, đại diện cho phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trương Sinh vì nghe lời nói của con, nghi ngờ bóng gió vợ mình, "đánh đuổi đi", khiến vợ rơi vào bế tắc phải tự tự để minh oan.→ Người phụ nữ đẹp người, đẹp nết lấy một người chồng vô học, đa nghi, "không tin vợ" khiến Vũ Nương phải lấy cái chết để minh oan.
- Phản ánh hiện thực xã hội bất công:
Dung túng cho một kẻ gia trưởng, vũ phu với tư tưởng "trọng nam khinh nữ"Sự ghen tuông của Trương Sinh rất mù quáng, thiếu căn cứ, bỏ ngoài tai lời can ngăn của vợ, xóm làng (thiếu hiểu biết).Sự ghen tuông của người chồng là hệ quả của xã hội đương thời với tư tưởng lạc hậuTố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến gia đình ly tán, vợ chồng hiểu lầm, khiến cho người dân phải chết rất nhiều. "nhiều người chạy trốn ra ngoài bể, thuyền đắm, tất cả đều chết đuối hết".* Giá trị nhân đạo:
- Khái quát về giá trị nhân đạo: Là lời cảm thông của tác giả trước những số phận đau khổ, tố cáo xã hội cũng như tìm ra một con đường giải thoát cho nhân vật của mình.
- Trong chuyện người con gái Nam Xương:
Tác giả trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ đương thời qua hình ảnh của Vũ Nương "tư dung tốt đẹp, hiếu thảo, ..."Thể hiện niềm tin vào những điều tốt đẹp "Ở hiền thì gặp lành" (Vũ Nương trở về trong võng lọng, kiệu hoa, bất tử), thể hiện ước mơ giải thoát của nhân dân đương thờiCất lên tiếng nói đòi quyền công bằng cho người phụ nữ xưa, đời quyền được hạnh phúc (Vũ Nương không trở về mà ở dưới cung điện của Linh phi).Lên tiếng tố cáo xã hội, chiến tranh phi nghĩa cướp đi hạnh phúc của con người, khiến gia định vợ chồng phải ly tán, gây ra đau khổ.Thể hiện niềm cảm thông với những số phận oan trái.3. Kết bài
Khẳng định lại vấn đề.Tham khảo!
Gía trị nhân đạo :
- Truyện đã thể hiện sự cảm thông, thương xót của nhà văn cho số phận của những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
- Tác phẩm là tiếng nói lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến tàn bạo, xấu xa đã đẩy con người vào những khổ đau cùng tận của cuộc đời.
- Tác phẩm đã ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những người nông dân lương thiện, đồng thời đề cao tình phụ tử cao quý của con người.
Giá trị hiện thực của truyện “Sống chết mặc bay” là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt.
Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại.
Giá trị nghệ thuật: Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Nhân vật đã bước đầu có tính cách. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, tăng cấp, kết hợp với lời bình luận trực tiếp để tố cáo và phê phán. Nhân vật quan phụ mẫu đã bộc lộ bản chất xấu xa, vô trách nhiệm qua các hành động, lời nói của y với tay chân và với người dân.
Thạch Lam là một trong những cây bút chủ lực của nhóm “Tự lực văn đoàn”. Sáng tác của ông bao gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, phê bình…Nhưng lĩnh vực thành công nhất của ông là truyện ngắn.Trong những truyện ngắn có khuynh hướng hiện thực cuộc sống của Thạch Lam có thể nói “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm thành công tiêu biểu.Truyện không có những tình tiết hấp dẫn, li kì, gây cấn chỉ xoay quanh sinh hoạt của người dân ở một phố huyện nghèo trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng qua đó Thạch Lam đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa XH sâu sắc.
Đọc “Hai đứa trẻ” chúng ta thấy bao trùm lấy câu chuyện là cuộc sống xơ xác, tiêu điều của một phố huyện nghèo. Cuộc sống đó đã được tác giả miêu tả ở một thời điểm hết sức tiêu biểu-thời điểm ngày lụi tàn: “Trống thu không từng tiếng một vang lên”, “phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “những đám mây ánh hồng như những hòn than sắp tàn”, “ngoài ruộng tiếng ếch nhái kêu rang vọng vào phố chợ..”. Một khoảng không gian mênh mông của đồng ruộng vừa đẹp lại vừa buồn gợi ra trước mắt người đọc.
Trên nền của bức tranh ấy, cuộc sống của người những người dân phố huyện được Thạch Lam miêu tả hết sức đặc sắc: Khi trời nhá nhem tối, mẹ con chị Tí bày cái hàng nước ra dưới gốc cây bàng. Liên dọn dẹp của hiệu tạp hóa rồi cộng sổ tính tiền. Bà cụ Thi đến cửa hàng Liên mua một cút rượu, ngửa cổ uống sạch rồi biến đi lẫn vào trong bóng tối với tiếng cười khanh khách. Đám trẻ con tụ họp chơi đùa trên các thềm nhà. Bác Siêu dọn gánh hàng phở ra bên bếp lửa bập bùng. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, trước cái thau trắng chờ có khách để hát kiếm tiền.
Qua ngòi bút chấm phá tinh tế của Thạch Lam chúng ta thấy cuộc sống ở phố huyện nghèo ấy hiện ra như một thế giới đang hấp hối, tàn lụi.
Trong bối cảnh ấy, hai chị em Liên và An cũng như những người dân phố huyện vừa náo nức vừa khắc khoải, mòn mỏi chờ đợi chuyến tàu từ Hà Nội về đi ngang qua phố huyện. Đêm nào cũng vậy, khi trời vừa bắt đầu tối thì hai chị em đã thấp thỏm chờ đợi chuyến tàu. Rồi chuyến tàu đến như hằng đêm nó vẫn thường đến với sức hấp dẫn kì lạ đối với hai chị em Liên-An cũng như người dân nghèo của phố huyện.
Tàu đến với tiếng còi và tiếng rầm rộ của bánh xe. Liên dắt em đứng lên để nhìn chuyến tàu vụt qua, chuyến tàu đầy sức hấp dẫn bởi nó tràn ngập ánh sáng. Ở những toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường. Những toa thuộc hạng sang trọng lố nhố người; đồng và kềnh lấp lánh. Cái nguồn sáng ấy vút qua, biến vào đêm tối để lại những đóm than nhỏ bay tung tóe trên mặt đường…
Chuyến tàu đêm ấy đã khơi gợi lên trong hồn Liên bao biến động. Đó là hoài niệm về Hà Nội thuở xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Đối với Liên, con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Thế giới ấy khác hẳn với thế giới mà Liên đang sống, khác hẳn với vầng sáng nhỏ nhoi của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bập bùng trong gáng hàng của bác Siêu…
Nhìn lại toàn bộ câu chuyện, người đọc không khỏi thắc mắc vì sao hằng đêm chị em Liên-An cứ mòn mỏi đợi chuyến tàu đi ngang qua phố huyện? Vì sao hình ảnh con tàu tràn ngập ánh sáng lại dấy lên trong tâm hồn Liên bao biến động? Bởi vì trong cuộc sống thường ngày ở phố huyện xơ xác, tiêu điều ấy, họ không thể tìm đâu ra niềm vui. Cuộc sống diễn ra chung quanh họ hết sức đơn điệu, nhạt nhẽo, vô vị…Chuyến tàu sáng rực đối với người dân phố huyện là hình ảnh của một thế giới khác hẳn, đối lập hoàn toàn với cái thế giới mà Liên và An đang sống- đó là thế giới của văn minh, niềm vui và hạnh phúc.
Từ đó mà ta cũng nắm bắt được vấn đề sâu sắc mà Thạch Lam gửi gắm vào truyện: Đó là khát vọng vươn ra thế giới văn minh, hạnh phúc của những con người nhỏ bé-giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Bên cạnh giá trị về mặt chủ đề, “Hai đứa trẻ” còn nổi bật lên những đặc sắc về nghệ thuật, thể hiện tập trung qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam trong việc tả người, tả cảnh cũng như miêu tả tâm trạng của con người. Gắn liền với nghệ thuật miêu tả là thủ pháp đối lập đã được nhà văn sử dụng hết sức thành công trong truyện. Trước hết là sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, đối lập giữa tĩnh và động. Thủ pháp đối lập này đã góp phần đắc lực cho Thạch Lam trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm.
“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đặc sắc và rất tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Qua tác phẩm chúng ta thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Thạch Lam đối với con người và nhất là những con người nhỏ bé trong xã hội. Chuyện đượm buồn nhưng đó là nỗi buồn cần thiết bởi nó có giá trị thanh lọc tâm hồn con người.
Thạch Lam là một trong những cây bút chủ lực của nhóm "Tự lực văn đoàn". Sáng tác của ông bao gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, phê bình...Nhưng lĩnh vực thành công nhất của ông là truyện ngắn.Trong những truyện ngắn có khuynh hướng hiện thực cuộc sống của Thạch Lam có thể nói "Hai đứa trẻ" là một tác phẩm thành công tiêu biểu.Truyện không có những tình tiết hấp dẫn, li kì, gây cấn chỉ xoay quanh sinh hoạt của người dân ở một phố huyện nghèo trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng qua đó Thạch Lam đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Đọc "Hai đứa trẻ" chúng ta thấy bao trùm lấy câu chuyện là cuộc sống xơ xác, tiêu điều của một phố huyện nghèo. Cuộc sống đó đã được tác giả miêu tả ở một thời điểm hết sức tiêu biểu-thời điểm ngày lụi tàn: "Trống thu không từng tiếng một vang lên", "phương Tây đỏ rực như lửa cháy", "những đám mây ánh hồng như những hòn than sắp tàn", "ngoài ruộng tiếng ếch nhái kêu rang vọng vào phố chợ..". Một khoảng không gian mênh mông của đồng ruộng vừa đẹp lại vừa buồn gợi ra trước mắt người đọc.
Trên nền của bức tranh ấy, cuộc sống của người những người dân phố huyện được Thạch Lam miêu tả hết sức đặc sắc: Khi trời nhá nhem tối, mẹ con chị Tí bày cái hàng nước ra dưới gốc cây bàng. Liên dọn dẹp của hiệu tạp hóa rồi cộng sổ tính tiền. Bà cụ Thi đến cửa hàng Liên mua một cút rượu, ngửa cổ uống sạch rồi biến đi lẫn vào trong bóng tối với tiếng cười khanh khách. Đám trẻ con tụ họp chơi đùa trên các thềm nhà. Bác Siêu dọn gánh hàng phở ra bên bếp lửa bập bùng. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, trước cái thau trắng chờ có khách để hát kiếm tiền.
Qua ngòi bút chấm phá tinh tế của Thạch Lam chúng ta thấy cuộc sống ở phố huyện nghèo ấy hiện ra như một thế giới đang hấp hối, tàn lụi.
Trong bối cảnh ấy, hai chị em Liên và An cũng như những người dân phố huyện vừa náo nức vừa khắc khoải, mòn mỏi chờ đợi chuyến tàu từ Hà Nội về đi ngang qua phố huyện. Đêm nào cũng vậy, khi trời vừa bắt đầu tối thì hai chị em đã thấp thỏm chờ đợi chuyến tàu. Rồi chuyến tàu đến như hằng đêm nó vẫn thường đến với sức hấp dẫn kì lạ đối với hai chị em Liên - An cũng như người dân nghèo của phố huyện.
Tàu đến với tiếng còi và tiếng rầm rộ của bánh xe. Liên dắt em đứng lên để nhìn chuyến tàu vụt qua, chuyến tàu đầy sức hấp dẫn bởi nó tràn ngập ánh sáng. Ở những toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường. Những toa thuộc hạng sang trọng lố nhố người; đồng và kềnh lấp lánh. Cái nguồn sáng ấy vút qua, biến vào đêm tối để lại những đóm than nhỏ bay tung tóe trên mặt đường...
Chuyến tàu đêm ấy đã khơi gợi lên trong hồn Liên bao biến động. Đó là hoài niệm về Hà Nội thuở xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Đối với Liên, con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Thế giới ấy khác hẳn với thế giới mà Liên đang sống, khác hẳn với vầng sáng nhỏ nhoi của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bập bùng trong gáng hàng của bác Siêu...
Nhìn lại toàn bộ câu chuyện, người đọc không khỏi thắc mắc vì sao hằng đêm chị em Liên-An cứ mòn mỏi đợi chuyến tàu đi ngang qua phố huyện? Vì sao hình ảnh con tàu tràn ngập ánh sáng lại dấy lên trong tâm hồn Liên bao biến động? Bởi vì trong cuộc sống thường ngày ở phố huyện xơ xác, tiêu điều ấy, họ không thể tìm đâu ra niềm vui. Cuộc sống diễn ra chung quanh họ hết sức đơn điệu, nhạt nhẽo, vô vị...Chuyến tàu sáng rực đối với người dân phố huyện là hình ảnh của một thế giới khác hẳn, đối lập hoàn toàn với cái thế giới mà Liên và An đang sống- đó là thế giới của văn minh, niềm vui và hạnh phúc.
Từ đó mà ta cũng nắm bắt được vấn đề sâu sắc mà Thạch Lam gửi gắm vào truyện: Đó là khát vọng vươn ra thế giới văn minh, hạnh phúc của những con người nhỏ bé - giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Bên cạnh giá trị về mặt chủ đề, "Hai đứa trẻ" còn nổi bật lên những đặc sắc về nghệ thuật, thể hiện tập trung qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam trong việc tả người, tả cảnh cũng như miêu tả tâm trạng của con người. Gắn liền với nghệ thuật miêu tả là thủ pháp đối lập đã được nhà văn sử dụng hết sức thành công trong truyện. Trước hết là sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, đối lập giữa tĩnh và động. Thủ pháp đối lập này đã góp phần đắc lực cho Thạch Lam trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm.
"Hai đứa trẻ" là một truyện ngắn đặc sắc và rất tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Qua tác phẩm chúng ta thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Thạch Lam đối với con người và nhất là những con người nhỏ bé trong xã hội. Chuyện đượm buồn nhưng đó là nỗi buồn cần thiết bởi nó có giá trị thanh lọc tâm hồn con người
Câu tl thứ 1500:Câu hỏi của Hưng Nguyễn - Tiếng anh lớp 9 | Học trực tuyến
Phạm Duy Tốn là một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Một trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, nó được coi như một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán sau này. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng: "Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất". Tính mạng "con dân" cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả. "Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre", "người nào người nấy lướt thướt như chuột lột". Một bên là cảnh quan huyện "kẻ cha mẹ của dân" có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê thì lại đang chễm chệ trong đình "cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì". Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình "đèn thắp sáng trưng", "nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp". Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với "con dân" đang "trăm lo ngàn sợ", quan phụ mẫu "uy nghi chễm chện ngồi" như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác.
Người đọc không thể tưởng tượng được trong tình thế nan nguy của tính mạng hàng ngàn người dân mà quan phụ mẫu vẫn điềm nhiên đánh bạc và hưởng lạc. Trong khi "sức người khó lòng địch nổi sức trời" thì bọn nha lại tay chân chỉ mải lo hầu bài quan.
Bản chất vô nhân đạo, lối sống "sống chết mặc bay" của tên quan huyện đã lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi "điếu mày", tiếng "dạ", tiếng "bốc", "Bát sách! Ăn", "Thất văn... phỗng"... Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. "Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp", hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai "đê vỡ rồi thời ông cách cổ *********". Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: "Thầy bốc quân gì thế?". Ván bài "ù to". Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy "nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết"...
Với việc sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện gay gắt; với giọng văn khi thiết tha xúc động, khi cay độc, mỉa mai,... Phạm Duy Tốn đã trực tiếp bày tỏ thái độ cảm thông sâu sắc của mình trước thảm cảnh của dân chúng và lòng căm uất phẫn nộ bọn quan lại phong kiến.