K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 3 2019

lại đổi tên

10 tháng 3 2019

ukm mong thơ ghê

18 tháng 10 2021

Em chồng rau anh cắm câu tính toán trong đầu nhất quyết đón em về làm dâu 

18 tháng 10 2021

thiếu từ chữ tết năm mới nha 

13 tháng 11 2018

Đáp án :

7 - 1 

= 6

Học tốt

13 tháng 11 2018

7-1=6 (mk rất ghét BTS NAK BN)

26 tháng 3 2019

Bài văn mẫu 1: Cảm nhận về bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu
Nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài Lượm vào năm 1949, in trong tập thơ Việt Bắc. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm, một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
 Lượm là bài thơ tự sự - trữ tình kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất anh dũng của chú bé liên lạc, hồn nhiên, nhí nhảnh, yêu đời, dũng cảm đã ngã xuống để bảo vệ sự bình yên cho chính mảnh đất quê hương mình. Hình ảnh nhân vật Lượm xuyên suốt trong bài thơ.
Trong năm khổ thơ đầu, bằng cái nhìn trìu mến thân thương, tác giả đã miêu tả một chú bé rất đáng yêu:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca nô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
con chim chích
Nhảy trên đường vàng...
Nhắc đến Lượm, người đọc nhớ đến hai khổ thơ này, bởi đây là hai khổ thơ đầy ấn tượng về một chú bé liên lạc nhỏ nhắn, xinh xinh, nhanh nhẹn hồn nhiên, nhí nhảnh vui tươi. Những từ láy loát choắt, xinh xinh, thoăn thoát, nghênh nghềnh được dùng rất gợi hình gợi cảm, cùng với thể thơ bốn chữ và nhịp thơ nhanh, tạo âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh rất phù hợp với một chú bé như Lượm. Một hình ảnh so sánh đẹp như con chim chích - nhảy trên đường vàng... gợi lên trước mắt chúng ta một chú bé hồn nhiên yêu đời. Thật thú vị! Nhà thơ Lê Đức Thọ cũng có bài thơ Em bé liên lạc, ông cũng hình dung em như một con chim non vui tươi ở những câu kết:
Ngày mai trên quãng đường trắng
Có em bé lại dẫn đường bên anh.
Miệng cười chân bước nhanh nhanh,
Như con chim nhỏ trên cành vui tươi.
Có lẽ không còn hình ảnh nào có thể thay thế cho được hình ảnh con chim nhỏ và chỉ có hình ảnh này mới thể hiện được vẻ đẹp trẻ thơ của chú bé liên lạc. Bao trùm lên tất cả là cái tình của nhà thơ, cái nhìn trìu mến, thân thương của tác giả đối với chú bé. Phải yêu quý Lượm lắm thì mới miêu tả Lượm hay đến như vậy!
Người đọc yêu biết bao cái cười híp mí, má đỏ bồ quân của chú, nhưng càng yêu hơn niềm vui được tham gia kháng chiến của chú bé:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!
Nhà thơ miêu tả Lượm vui như con chim sổ lồng. Cái ý đi làm liên lạc thích hơn ở nhà, đúng là niềm vui của con chim sổ lồng. Đó là niềm vui chung của cả thế hệ trẻ sau Cách mạng tháng Tám, chứ không riêng gì của chú bé Lượm
Đáng yêu hơn là tiếng chào: Thôi chào đồng chí vừa tinh nghịch dí dỏm, lại vừa đứng đắn nghiêm trang, bởi em đã tham gia kháng chiến như mọi người, như chú của em vậy. Trong tiếng chào ấy ta thấy vang lên một niềm tự hào kiêu hãnh rất trẻ con, và rất đáng yêu của Lượm.
Ấn tượng của cuộc gặp gỡ vẫn còn giữ nguyên vẹn nét đẹp đẽ, vui tươi, ấm áp trong lòng tác giả, thì bỗng nhiên có tin Lượm hy sinh. Câu thơ bốn tiếng được ngắt làm hai dòng, bị gãy đôi như một tiếng nấc:
Ra thế
Lượm ơi!
Đó là nỗi sửng sốt, xúc động đến nghẹn ngào. Và nhà thơ hình dung ngay ra cảnh tượng chú bé hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ:
Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư để "thượng khẩn"
Sợ chi hiểm nghèo?
Để rồi lại nghẹn ngào gọi em một lần nữa:
Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi!
Lượm đã hy sinh anh dũng như một chiến sĩ thực thụ, ở trên nhà thơ còn gọi em bằng cháu, và ở đây khi kể lại cảnh Lượm hy sinh. Tố Hữu đã gọi chú bằng những lời xưng hô trang trọng: Chú đồng chí nhỏ và có tới hai lần gọi như thế. Việc làm của em, sự hy sinh cao đẹp của em khiến em xứng đáng được nhà thơ gọi như thế. Phải chăng đó là lòng cảm phục của một cán bộ cách mạng đối với một em thiếu nhi anh hùng.
Nhưng rồi cuối cùng, tình cảm công dân ấy lại quay về tình chú - cháu. Nhà thơ lại gọi Lượm bằng tiếng cháu thân thương khi miêu tả cái chết đẹp đẽ cua em giữa đồng lúa quê hương:
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng...
Cánh đồng quê hương như vòng nôi, như vòng tay của mẹ, ấm êm dịu dàng đón em vào lòng. Em chết mà tay vẫn nắm chặt bông lúa, quê hương và hương lúa vẫn bao bọc quanh em như ru em vào giấc ngủ đẹp của tuổi thơ anh hùng. Em chết mà hồn bay giữa đồng, vừa thiêng liêng vừa gần gũi biết bao! Không yêu mến, xót thương, cảm phục Lượm thì không thể miêu tả một cái chết hồn nhiên và lãng mạn đến như thế! Đó là cái chết của những thiên thần nhỏ bé. Thiên thần nhỏ bé ấy đã bay đi để lại bao tiếc thương cho chúng ta, như Tố Hữu đã nghẹn ngào, đau xót gọi em lần thứ ba bằng một câu thơ day dứt: Lượm ơi còn không?
Câu thơ đứng riêng thành một khổ thơ, như một câu hỏi xoáy sâu vào lòng người đọc. Nếu không có cái tình với Lượm thì nhà thơ làm sao lại day dứt thế được!
Câu hỏi ngân vang ấy, tưởng chừng như không có câu trả lời, nhưng chính tác giả đã trả lời bằng hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng.
Hai khổ thơ cuối láy lại khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba như một điệp khúc để khẳng định Lượm vẫn còn sống mãi với quê hương đất nước, sống mãi trong lòng tác giả. Bài thơ hết nhưng ý thơ lại mở ra vẫn còn tiếp nối mãi trong lòng người đọc hình ảnh một chú bé liên lạc hồn nhiên mà dũng cảm, đáng yêu và đáng cảm phục. Lượm vẫn còn sống mãi trong lòng chúng ta như bài ca bất diệt về tuổi thơ trong sáng đã hiến dâng đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc.
Với thể thơ bốn chữ, một thể thơ dân gian truyền thống phù hợp với lối kể chuyện có nhịp kể nhanh. Với cách ngắt đôi câu thơ đột ngột, và nghệ thuật tách câu thơ thành một khổ thơ riêng rất độc đáo, kết hợp với cách sử dụng câu hỏi tu từ, câu cảm thán... Lượm thật sự là một bài thơ hay, cảm động về một tấm gương bé bỏng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bài văn mẫu 2: Cảm nhận về bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, thiếu nhi Việt Nam hăng hái làm theo lời dạy của Bác Hồ:
Tuổi nhỏ làm việc nhỏ,
Tùy theo sức của mình.
Nhiều bạn đã hi sinh tuổi thơ trong sáng cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do của dân tộc. Hình ảnh chú bé liên lạc hồn nhiên, dũng cảm trong bài thơ Lượm của Tố Hữu đã để lại trong em niềm cảm phục sâu sắc.
Lượm theo bộ đội làm liên lạc hồi đầu kháng chiến (cuối năm 1946). Lúc này, Pháp chưa đánh rộng ra. Quân ta đóng ở đồn Mang Cá một cứ điểm quan trọng của Huế. Trong một trận tấn công vào đồn giặc, Lượm hi sinh. Tác giả biết tin, vô cùng xúc động và đã sáng tác nên bài thơ này (1949).
Bằng cách kết hợp miêu tả với kể chuyện và biểu hiện cảm xúc, nhà thơ đã khắc họa sinh động hình ảnh chú bé Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái và dũng cảm.
Thể thơ bốn chữ cùng với nhiều từ láy có giá trị gợi hình và giàu âm điệu đã góp phần tạo nên thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật.
Mở đầu bài thơ, tác giả dựng lại khung cảnh buổi gặp gỡ đáng nhớ giữa hai chú cháu:
Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè.
Cuộc gặp gỡ đáng nhớ bởi nó diễn ra trong thời gian, không gian đặc biệt: Ngày Huế đổ máu. Huế đổ máu, Huế chiến đấu ác liệt để ngăn chặn bàn chân xâm lược của giặc Pháp vì chúng muốn chiếm lại nước ta. Ngày ấy là ngày mọi người không thể nào quên. Hoàn cảnh điển hình đó càng tô đậm thêm tính cách của nhân vật Lượm.
Trang phục của Lượm giống như trang phục của các chiến sĩ Vệ quốc bởi Lượm cũng là một chiến sĩ thực sự. Nhưng Lượm còn rất bé nên cái xắc đeo bên mình cùng chỉ xinh xinh. Chiếc mũ ca lô đội lệch bộc lộ vẻ tinh nghịch và hiếu động.
Lượm được nhà thơ miêu tả với tấm lòng yêu mến chân thành:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng...
Dáng Lượm loắt choắt, đã nhỏ lại gầy nhưng nhanh nhẹn và tinh nghịch. Chân thì thoăn thoắt, rất nhanh và rất nhẹ. Đầu nghênh nghênh, lúc nghiêng bên này, lúc nghiêng bên kia. Nhịp thơ nhanh gợi lên hình ảnh chú bé vui tươi, nhí nhảnh, yêu đời.
Đặc điểm bên ngoài phần nào đã thể hiện tính cách bên trong của Lượm. Ca lô không chịu đội thẳng mà đội lệch. Miệng luôn huýt sáo vang. Lượm chẳng khác nào như con chim chích bé nhỏ nhảy trên đường vàng.
Lượm hồn nhiên kể chuyện:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà
Bấy giờ, cái gian khổ của kháng chiến trường kì chưa tới. Mọi người đang sống trong không khí phấn khởi hào hứng của độc lập, tự do sau Cách mạng tháng Tám. Cái vui của Lượm bắt đầu từ niềm vui của đất nước, của dân tộc. Lượm vui trong lòng, vui ngoài nét mặt, dáng điệu, cử chỉ, lời nói. Tưởng chừng cái xắc cũng vui lây, cũng nhún nhảy theo nhịp chân của chú bé. Đeo xắc là dấu hiệu của người làm cán bộ. Lượm thấy oai lắm, ra vẻ lắm nên tỏ ra rất tự hào.
Giống như các bạn cùng lứa tuổi, Lượm rất hiếu động. Đặc điểm này đã được hướng vào những công việc có ích cho kháng chiến. Hình ảnh Lượm lúc chia tay tác giả thật đẹp và đầy sức sống:
Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Cả câu: Thôi chào đồng chí! cũng mang dấu ấn của niềm vui. Lượm chào chú bằng đồng chí, rất tinh nghịch, dí dỏm, mà cùng rất nghiêm túc, bởi Lượm đã tham gia kháng chiến.
Đoạn thơ dùng thể thơ bốn chữ, nhịp nhanh, cùng nhiều từ láy (loắt choắt, thoăn thoát, nghênh nghênh) góp phần thể hiện hình ảnh Lượm - một em bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi) say mê tham gia công tác kháng chiến thật đáng mến, đáng yêu.
Câu chuyện của Lượm trong chuyến đi liên lạc cuối cùng được kể qua lời của người kể với những cảm xúc đau xót, tiếc thương, tự hào được biểu hiện trực tiếp và qua cả cách nhìn, cách miêu tả.
Khi nghe tin Lượm hi sinh, tác giả đau đớn thốt lên: Ra thế Lượm ơi!...
Kỉ niệm về cuộc gặp gỡ với chú bé liên lạc còn tươi nguyên trong lòng nhà thơ thì bỗng dưng có tin chẳng lành. Câu thơ bình thường bỗng nhiên bị ngắt làm đôi. Ám hiệu ngập ngừng và dấu chấm than thể hiện tâm trạng ngạc nhiên và xúc động đến bàng hoàng.
Tác giả hình dung ra tình huống hi sinh của Lượm thật cụ thể. Cũng như bao lần đi làm nhiệm vụ, Lượm dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái và đầy quyết tâm, không nề nguy hiểm:
Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo
Chiến trường đầy khói lửa nhưng Lượm vẫn xông pha làm nhiệm vụ. Bỗng lòe chớp đỏ, Thôi rồi Lượm ơi! Kể lại, hình dung lại sự việc mà tưởng chừng như tác giả đang tận mắt chứng kiến cái giây phút đau đớn ấy nên không kiềm chế được, tự đáy lòng bật thốt lên tiếng kêu đau đớn. Câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào đầy xót thương và cảm phục của tác giả của chúng ta trước cái chết bất ngờ của người chiến sĩ nhỏ. Chú bé đã hi sinh anh dũng giữa tuổi thiếu niên hồn nhiên, tươi trẻ đầy hứa hẹn. Nhà thơ không dừng lâu ở nỗi đau xót mà ông cảm nhận rằng sự hi sinh của Lượm rất đỗi thiêng liêng, cao cả. Chú như một thiên thần bé nhỏ yên nghỉ trên cánh đồng quê hương. Lượm đã hóa thân vào đất mẹ:
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng...
Bao quanh Lượm là sự sống mơn mởn đang lên. Hương lúa thơm như mùi sữa mẹ. Sự hi sinh của Lượm vô cùng nhẹ nhàng, thanh thản. Câu thơ: Hồn bay giữa đồng khẳng định tinh thần bất tử của Lượm. Lượm đã chết cho quê hương xứ sở.
Câu thơ Lượm ơi, còn không? là một câu hỏi tu từ được tách ra thành một khổ thơ riêng có tác dụng nhấn mạnh, đặc tả nỗi đau đớn xót xa và niềm bâng khuâng, nhớ tiếc khôn nguôi của tác giả.
Hai khổ thơ cuối lặp lại như một điệp khúc khắc sâu hình ảnh đẹp đẽ của Lượm trong tâm hồn mọi người:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng...
Lượm là bài thơ hay trong số những bài viết về tuổi nhỏ Việt Nam hồn nhiên, dũng cảm. Em thấy Lượm rất xứng đáng với những gương sáng của thanh thiếu niên thế hệ trước như Lí Tự Trọng, Kim Đồng; xứng đáng là đàn anh của những anh hùng dũng sĩ thiếu niên như Nguyễn Bá Ngọc, Kpa Klơng, Nguyễn Văn Hòa... thời đánh Mĩ.

Bài văn mẫu 3: Cảm nhận về bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu
Lượm là bài thơ rất tiêu biểu cho thơ Tố Hữu trên nhiều phương diện, về mặt hình tượng, Lượm là một nhân vật nằm trong hệ thống những nhân vật trở đi trở lại nhiều lần trong các tác phẩm của ông, nhất là trong tập thơ Việt Bắc: những bà mẹ, người chị, anh bộ đội, đứa em,... nghĩa là hình ảnh một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Giọng kể, cách kể trung thực và sinh động trong một bài thơ bốn chữ với tiết tấu nhanh thích hợp với nhân vật được kể. Bố cục của bài thơ rõ ràng, mạch lạc: cuộc gặp gỡ tình cờ giữa nhà thơ và nhân vật, chuyến đi liên lạc cuối cùng, sự hi sinh dũng cảm của em, kết thúc là những cảm nghĩ của nhà thơ về "con người không chết" ấy.
Hình tượng nhân vật Lượm, trong năm khổ thơ đầu nếu chuyển từ thơ ca sang kí hoạ miêu tả chân dung, ta thấy đó là một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói. Nhưng giá trị của bức tranh không chỉ dừng lại ở những nét vẽ ngoại hình. Hoặc nói khác đi, từ những đường nét có thật của ngoại hình, vẻ đẹp bên trong của em được bộc lộ. Đó mới là điều tạo nên ấn tượng sâu sắc với nhà thơ:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Giọng thơ dĩ nhiên là theo lời kể, một cách kể nhịp nhàng, về trang phục và dáng đi, cả nét người, khuôn mặt. Những từ "cái" đặt ở đầu câu tạo nên một cấu trúc hệ thống, vừa lặp lại vừa rất đáng ngạc nhiên hay là cảm giác ngạc nhiên trong sự lặp lại. Thích hợp với hệ thống ấy, là một loạt những tính từ, động từ chỉ vật (đồ vật) và chỉ người hoàn toàn bằng từ láy. Có những từ láy gần âm và gần nghĩa (giữa "thoăn thoắt" và "loắt choắt") bổ sung cho nhau tạo ấn tượng về sự nhỏ bé và nhanh nhẹn, nhưng cũng có những từ láy mà cả âm và nghĩa đều khác xa nhau: "xinh xinh" với "nghênh nghênh" chẳng hạn: "xinh xinh" là vẻ đẹp tươi tắn, hồn nhiên (hoà hợp giữa trang phục với dáng người thấp nhỏ), còn "nghênh nghênh" tạo dáng một trẻ em mới lớn cả sức vóc và ý chí, mong muốn sớm tự khẳng định mình. Tính đồng bộ về sự ăn nhập ngoại hình phải đến câu tiếp theo "Ca lô đội lệch", và chỉ chờ có thế là một niềm vui oà ra, cất cánh:
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
So sánh đã thay dần cho tả thực, một tính cách đã định hình. Nhà thơ không chỉ quan sát, nhìn ra mà là cảm thấy. Con đường mà em Lượm đang đi cứ lớn rộng dần ra, và là con đường rất đẹp (đường vàng). Hình ảnh con đường mang nhiều lớp nghĩa vừa chỉ hướng đi, vừa chỉ hướng dời. Đặt chân vào con đường ấy (con đường kháng chiến của toàn dân), em như bước vào ngày hội ("Mồm huýt sáo vang"). Nhịp thơ không chỉ thể hiện bước đi nhanh và ngắn như ở khổ hai mà dài hơn, xa hơn và thay cho "đi" là "nhảy". Những điệp từ và từ láy không còn cũng vì lí do ấy. Sự lớn lên trong tâm hồn, trong tư tưởng ở em giống như một bước nhảy vọt trong khi về dáng dấp, hình hài vẫn là một đứa trẻ thơ. Chính sự không ăn khớp đến so le này đã tạo cho Lượm một vẻ đẹp riêng, vượt qua cái khác lạ hình thức bên ngoài (ngộ nghĩnh) có tính chất đơn lẻ, cá nhân mà vươn tới một vóc dáng tinh thần khác mang âm vang cái hào hùng có tính chất thời đại, có tính chất toàn dân. Chỉ có điều cái "khác thường" ấy thống nhất với cái bình thường. Đứa trẻ bình thường ấy đã rất hồn nhiên:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà !
Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sông, ra biển. Lượm đã là con của đất nước "con của vạn nhà" chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Thơ không phân tích lí giải mà đơn giản chỉ giãi bày thì đó cũng là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn là biểu hiện của cái háo hức bên trong không giấu được của mình:
Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Thôi chào đồng chí!
Cháu đi xa dần...
Một từ "đồng chí" mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ. Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.
Giá như Lượm không mất thì chưa chắc Tố Hữu đã có được bài thơ cảm động này. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở nên một thứ tượng đài bất tử. Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt dầu từ câu: "Ra thế - Lượm ơi!".
Một câu thơ tưởng như đơn giản vậy thôi mà hội đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tinh và tự sự. Tự sự là mạch nối, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ. Nói cao trào vì đây là những nỗi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm. Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. "Ra thế" thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn "Lượm ơi!" là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở? "Ra thế" thuộc về khách quan, còn "Lượm ơi!" thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh "tin nhà" kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thể hình dung:
Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao...
Chuyển thư từ, mệnh lệnh là nhiệm vụ hằng ngày của những em bé "liên lạc" như Lượm thì có gì phải kể? Nhưng mà không. Yếu tố tự sự của lời kể bỗng nhiên có ý nghĩa khi nó kết hợp làm một với yếu tố trữ tình, thông qua yếu tố trữ tình. Yếu tố trữ tình ở đây thể hiện trong việc sử dụng một thứ thời gian không xác định "Một hôm nào đó - Như bao hôm nào". Có một cái gì thật mơ hồ, một phần có lẽ vì trong chiến tranh người ta không nhớ được thật cụ thể (ngày, giờ), một phần diễn tả đúng được tính cách vô tư của Lượm. Em có biết đâu đấy là ngày định mệnh của mình. Khổ thơ chuẩn bị cho cái chết của nhân vật ở đoạn sau. Cái chết đang đến gần mà Lượm không biết, nhưng người kể thì đâu có vô tâm. Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm... bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi thì hoà nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật:
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vẽo
Thư đề "Thượng khẩn"
Sợ chi hiểm nghèo?
Đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hoá thân vào nhân vật cua mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát:
Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng...
Tách nhà thơ ra khỏi nhân vật được kể trong thơ, nhưng thi sĩ đã tạo nên một sự hoà nhập mới giữa nhân vật trẻ thơ của mình với đồng quê, ruộng lúa, những gì thật gần gũi, thân thuộc với trẻ thơ. Chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự toả ra theo một cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, hiểm độc mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh ở nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm hoạ bao vây. Bởi vậy, khi cái chết ập đến, câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào. Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: "Thôi rồi, Lượm ơi!" chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê nửa tỉnh. Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết?
Nhưng sự thực đau xót "Một dòng máu tươi" lại không thể không tin. Chỉ có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái.
Đoạn thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặc biệt: "Lượm ơi, còn không?". Đặc biệt vì lẽ thứ nhất: nó tách ra thành một dòng riêng, không ăn nhập với khổ nào. Và lẽ thứ hai: không tự sự, cũng không trữ tình, nó khái quát triết học về lẽ còn mất, trước một cao cả nhân sinh. Để sau đó, hai khổ tiếp theo như một luận chứng tâm hồn: Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ kết lặp lại hai khổ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.
Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỏ tuổi bằng thể thơ bốn chữ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đơn điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai) với độc thoại (đoạn ba). Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như "Ra thế - Lượm ơi!", hoặc "Lượm ơi, còn không?" là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời, về với nó, cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh):
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng...
Thiên nhiên ấy, với đầu óc còn thơ ngây của Lượm, nó chính là quê hương, và rộng hơn: nó là đất nước.

26 tháng 3 2019

I.Tìm hiểu chung.
1.Tác giả, tác phẩm.
- Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành là nhà cách mạng vừa là nhà thơ.
- Bài thơ “Lượm” viết vào năm 1949.
II.Tìm hiểu chi tiết.
1.Hình ảnh Lượm và cuộc gặp gỡ tình cờ của hai chú cháu.
- Trang phục: cái xắc xinh xinh, ca lô đội lệch.
- Hình dáng: cái chân thoăn thoắt, cái đầu nghênh nghênh.
- Cử chỉ: mồm huýt sáo vang, cháu cười híp mí.
- Lời nói: cháu đi liên lạc, vui lắm chú à,… 
=>Nhịp thơ nhanh, kết hợp với nhiều từ láy gợi hình và phép so sánh.
=> Khắc họa hình ảnh một chú bé liên lạc, nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, hồn nhiên, vui tươi và yêu đời.
2.Hình ảnh Lượm trong chuyến đi liên lạc và sự hi sinh.
- Hình ảnh Lượm được miêu tả qua các câu thơ:
+ Vượt qua mặt trận.
+ Cháu nằm trên lúa.
+ Hồn bay giữa đồng.
+ Đạn bay vèo vèo. 
=> Dùng động từ mạnh, câu hỏi tu từ kết hợp với phương thức kể.
=> Dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái, hoàn thành nghĩa vụ và hi sinh thanh thản. 
=>Đoạn thơ kể chuyện vê sự hi sinh dũng cảm, đẹp đẽcủa chú bé liên lạc trong sự thương tiếc của nhà thơ. 3.Hình ảnh Lượm trong suy nghĩ của tác giả và mọi người.
- Lặp lại hai khổ thơ đầu 
->tái hiện lại hình ảnh của Lượm
-> khẳng định rằng Lượm vẫn còn sống mãi trong lòng nhà thơ và sống mãi với quê hương đất nước.
.ANghệ thuật.
- Sử dụng thể thơ bốn chữ, giàu chất dân gian phù hợp với lối kể chuyện.
- Sử dụng từ láy có giá trị gợi hình, giàu âm điệu.
- Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả và biểu cảm.
- Cách ngắt dòng các câu thơ rất đặc biệt.
- Kết cấu đầu cuối tương ứng để khắc sâu hình ảnh của nhân vật là làm nổi bật chủ đề.
2.Ý nghĩa.
- Bài thơ khắc họa hình ảnh của một chú bé hồn nhiên dũng cảm hi sinh vì nhiệm vụ kháng chiến. Đó là một hình tượng cao đẹp trong thơ ca Tố Hữu.
- Đồng thời bài thơ thể hiện chân thật, tình cảm mến thương và cảm phục của tác giả dành cho Lượm nói riêng và tất cả những người yêu nước như Lượm nói chung.

Xin chào mọi ngườiChỉ còn vài tiếng nữa thôi là đến giao thừa rồi không biết còn ai thức để đón giao thừa không . Chứ mình có thức vì năm trước do một số việc bận nên mình đã bỏ lỡ một đêm giao thừa mình rất là tiếc khi không được đón giao thừa chung với mọi người . Nhưng hôm nay cho dù có mệt mỏi cho dù có buồn ngủ thì mình vẫn sẽ quyết định đón giao thừa để không còn...
Đọc tiếp

Xin chào mọi người

Chỉ còn vài tiếng nữa thôi là đến giao thừa rồi không biết còn ai thức để đón giao thừa không . Chứ mình có thức vì năm trước do một số việc bận nên mình đã bỏ lỡ một đêm giao thừa mình rất là tiếc khi không được đón giao thừa chung với mọi người . Nhưng hôm nay cho dù có mệt mỏi cho dù có buồn ngủ thì mình vẫn sẽ quyết định đón giao thừa để không còn hối tiếc và tiếc nuối . Không biết nhà mọi người đã sắm tết chưa còn nhà mình thì đã sắm tết từ rất sớm tuy có làm việc nhà mệt đến mức nào thì mình vẫn luôn cảm thấy vui vẻ bên gia đình . 

Và một điều nữa là chúc mừng nhiệm kì mới của năm 2023 . Chúc tất cả các bạn CTV mới sẽ hoàn thành tốt công việc vì admin đã rất luôn luôn tin tưởng và trao trách nhiệm cho bạn thì hãy luôn cố gắng duy trì nó . Chúc trước nha !

Cuối cùng xin chúc thầy cô và các bạn có một năm mới tràn đầy niềm vui và tiếng cười , chúc nhiệm kì mới thành công tốt đẹp . 

Xin cảm ơn !

4
21 tháng 1 2023

cùng mik đếm ngược nèo:33333

21 tháng 1 2023

thật ra cái đoạn ''vì năm trước do một số việc bận nên mình đã bỏ lỡ một đêm giao thừa'' là do ngủ quên đó :)))

  • Ai ơi bưng bát cơm đầy,

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

  • Ai đưa con sáo sang sông,

Để cho con sáo sổ lồng bay ra.

  • Anh về học lấy chữ hương,

Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.

  • Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Nhớ ai dãi nắng dầm sương,

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

  • Anh em nào phải người xa,

Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.

Yêu nhau như thể tay chân,

Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.

  • Anh đi anh nhớ non buồi

Nhớ sông Vị Thủy, nhớ người còn trinh

  • Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.

  • Ai về Hà Tĩnh thì về,

Mặc lụa chợ Hạ, uống chè hương sen.

  • Ai về Tuy Phước ăn nem,

Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm.

  • Ai về đến huyện Đông Anh,

Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương.

Cổ Loa hình ốc khác thường,

Trải qua năm tháng, nẻo đường còn đây.

  • Anh hùng là anh hùng rơm,

Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng.

  • Ai về tôi gửi buồng cau,

Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.

  • Anh đi Bình Định ở lâu,

Chiều chiều em đứng vườn dâu ngó chừng.

Hai hàng nước mắt rưng rưng,

Chàng xa thiếp cách, ngang chừng muốn băng.

Phụ mẫu nhà la dức rầm rầm,

Cơm sao ngơ ngáo, làm không muốn làm.

Bởi chưng thiếp bắc chàng nam,

Giơ tay không nổi còn làm việc chi.

  • Ai về nhớ Vải Ninh Hòa,

Nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê,

Nhớ dừa Quảng Hán, Lựu Khê,

Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào.

  • Ai về Nhượng Bạn thì về,

Gạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn.

  • Anh ơi! Cố chí canh nông

Chín phần ta cũng dự trong tám phần

Hay gì để ruộng mà ngăn,

Làm ruộng lấy lúa,chăn tằm lấy tơ.

C[sửa]

  • Cây cao thì gió càng lay ,

Càng cao danh vọng càng dày gian nan.

D[sửa]

  • Dã tràng se cát biển đông,

Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.

  • Dù ai nói ngả nói nghiêng,

Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.

  • Dạy con từ thuở còn thơ,

Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.

  • Dù em con bế con bồng,

Thi đua yêu nước quyết không lơ là.

  • Dù ai đi ngược về xuôi,

Cơm nắm lá cọ là người sông Thao.

  • Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.

  • Dao cau rọc lá trầu vàng

Mắt anh anh liếc,mắt nàng nàng đưa.

  • Ai về đến huyện Sa Pa

Nhớ xem phong cảnh nóc nhà Đông Dương

Đ[sửa]

  • Đi cho biết đó biết đây,

Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.

  • Con gái nói có là không,

Nói yêu là ghét, nói buồn là vui.

  • Đàn ông đi biển có đôi,

Đàn bà đi biển mồ côi một mình.

  • Đời người có một gang tay,

Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang.

  • Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi,

Mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông.

  • Đa tình thì vướng nợ tình,

Trách người đã vậy, trách mình sao đây !

  • Đã cam quấn quít má đào,

Những mong chim nhạn mai trao chỉ hồng.

  • Đêm qua ra đứng bờ ao,

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?

Buồn trông chênh chếch sao Mai.

Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?

  • Đôi ta bắt gặp nhau đây,

Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang.

  • Đôi ta như tượng mới tô,

Như chuông mới đúc, như chùa mới xây.

  • Đôi ta như lửa mới nhen,

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.

  • Đôi ta như rắn liu điu,

Nước chảy mặc nước, ta dìu lấy nhau.

  • Đôi ta như ruộng năm sào,

Cách bờ ở giữa làm sao cho liền?

  • Đôi ta như thể đồng tiền,

Đồng sấp, đồng ngửa, đồng nghiêng, đồng nằm.

  • Đôi ta như thể con bài,

Đã quyểt thì đánh, đừng nài thấp cao

Đôi ta như đá với dao,

Năng siếc, năng sắc, năng chào, năng quen.

  • Đôi ta như ngãi Phan Trần,

Khi xa ngàn dặm, khi gần bên đôi.

  • Đôi ta như rượu với nem,

Đang say ngây ngất, ai dèm chớ xa.

  • Đôi ta như lúa đòng đòng,

Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha

Đôi ta như chỉ xe ba,

Thầy mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều.

  • Đêm nằm lưng chẳng tới giường,

Trông cho mau sáng ra đường gặp em.

  • Đi ngang thấy ngọn đèn chong chóng,

Thấy em nho nhỏ, muốn bồng mà ru.

  • Đường dài ngựa chạy biệt tăm,

Người thương có nghĩa trăm năm cũng về.

  • Đầu năm ăn quả thanh yên,

Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.

Vì cam cho quýt đèo bòng,

Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương.

  • Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng:

Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?

Trầu vàng nhá lẫn cau xanh,

Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.

  • Đói lòng ăn nửa trái sim,

Uống lưng bát nước đi tìm người thương

Người thương, ơi hỡi, người thương,

Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng.

  • Đôi ta cùng bạn chăn trâu,

Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hang.

Bao giờ cho gạo bén sang,

Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh.

  • Đường xa thì thật là xa,

Mượn mình làm mối cho ta một người.

Một người mười tám đôi mươi,

Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.

  • Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,

Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,

Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.

  • Đêm qua vật đổi sao dời,

Tiếc công gắn bó nhỡ lời giao đoan.

  • Đêm qua trời sáng trăng rằm,

Anh đi qua cửa em nằm không yên.

Mê anh chẳng phải mê tiền,

Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng.

Thấy anh em những mơ màng,

Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôi.

Thấy anh chưa kịp ngỏ lời,

Ai ngờ anh đã vội dời gót loan.

Thiếp tôi mê mẩn canh tàn,

Chiêm bao như thấy anh chàng ngồi bên.

Tỉnh ra lẳng lặng yên nhiên,

Tương tư bệnh phát liên miên cả ngày.

Nghĩ rằng duyên nợ từ đây,

Xin chàng hãy lại chơi đây chút nào.

Cho thiếp tỏ thiệt thấp cao!

  • Đợi chờ trúc ở với mai,

Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng.

  • Đi qua nghiêng nón, cúi lưng,

Anh không chào, em không hỏi, vì chưng đông người.

  • Đôi ta thương mãi nhớ lâu,

Như sông nhớ nước, như nhành dâu nhớ tằm.

  • Đấy, đây xứng đáng cũng vừa,

Xin đừng kén chọn lọc lừa nơi nao.

  • Đu đủ tía, giềng giềng cũng tía,

Khoai lang ngâm, ngọn mía cũng giâm.

Củi kia chen lẫn với trầm,

Em giữ sao cho khỏi, kẻo lầm, bớ em!

  • Đi đâu bỏ nhện giăng mùng,

Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu!

  • Đại Hoàng phong cảnh hữu tình,

Của nhiều đất rộng gái xinh trai tài.

  • Đố ai lặn xuống vực sâu,

Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa.

  • Đố ai bắt chạch đằng đuôi,

Bắt chim đầu cánh, bắt người trong trăng.

  • Đố ai biết đá mấy hòn,

Tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm.

  • Đố ai lượm đá quăng trời,

Đem gầu tát biển, ghẹo người trong trăng.

  • Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ,

Tua rua bằng một, cất bát cơm chăm.

Tháng tư mua nứa đan thuyền,

Tháng năm tháng sáu gặt miền ruộng chiêm.

  • Đố ai tát bể Đông Khê,

Tát sông Bồ Đề, trăng tròn mấy đêm.

  • Đông Thành là mẹ là cha,

Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành.

  • Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Ai vô xứ Nghệ thì vô!

  • Đường lên Mường Lễ bao xa?

Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh.

  • Đường lên xứ Lạng bao la?

Cách một trái núi với ba quãng đồng.

Ai ơi, đứng lại mà trông,

Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ…

  • Đường về Kiếp Bạc bao xa?

Đường về Kiếp Bạc có cây đa Bồ Đề.

Có yêu anh cắp nón ra về,

Giàu ăn, khó chịu chớ hề thở than.

  • Đất ta bể bạc, non vàng,

Bể bạc Nam Hải, non vàng Bồng Miêu.

  • Đố ai biết lúa mấy cây,

Biết sông mấy khúc, biết cây mấy tầng.

  • Đi bộ thì khiếp Hải Vân,

Đi thuyền thì khiếp sóng Thần, hang Dơi.

Yêu nhau cho thịt cho xôi,

Ghét nhau đưa đến Kim Bôi , Hạ Bì.

  • Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,

Đò từ Vĩ Dạ thẳng ngả Ba Sình.

Lờ đờ bóng ngả trăng chênh,

Tiếng hò xa vọng, nặng tình nước non.

  • Đức Thọ gạo trắng nước trong,

Ai về Đức Thọ thong dong con người.

  • Đầm Đại Từ hoa sen thơm ngát

Giếng Đại Từ nước mát nước trong

Dòng Tô uốn khúc lượn quanh

Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài.

  • Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh

Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.

  • Đố anh con rết mấy chân?

Núi Đầu Mâu mấy thước, chợ Hôm mấy người?

  • Đất Châu Thành anh ở

Xứ Cần Thơ nọ em về

Bấy lâu sông cận biển kề

Phân tay mai trúc dầm dề hột châu.

  • Đống Đa ghi để lại đây,

Bên kia thanh miếu, bên này Bộc am.

  • Đồng Nai có bốn rồng vàng,

Lộc họa Lễ phú San đàn Nghĩa thi.

  • Đời vua Thái Tổ, Thái Tông,

Con bế con bồng, con dắt, con mang.

Bò đen húc lẫn bò vàng,

Hai con húc chắc, đâm quàng xuống sông.

Thằng bé chạy về bảo ông

”Bò đen ta ngã xuống sông mất rồi”.

  • Đàn ông miệng rộng thì tài,

Đàn bà miệng rộng điếc tai láng giềng.

  • Đàn ông nông nổi giếng khơi,

Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

  • Đói thì đầu gối phải bò,

Cái chân hay chạy cái giò hay đi.

  • Đồng tiền không phấn không hồ,

Sao mà khéo điểm khéo tô mặt người!

  • Đem chuông đi đấm nước người,

Chẳng kêu cũng đấm ba hồi lấy danh.

  • Đi đâu mà bỏ mẹ già,

Gối nghiêng ai sửa, tách trà ai dâng.

  • Đói lòng ăn hột chà là,

Để cơm nuôi mẹ , mẹ già yếu răng.

  • Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,

Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.

  • Đã sinh ra kiếp ở đời,

Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn.

Gái thời trinh tịnh lòng son,

Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.

Trai lành gái tốt ra người,

Khuyên con trong bấy nhiêu lời cho chuyên.

  • Đã rằng là nghĩa vợ chồng,

Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.

  • Đắng cay cũng thể ruột rà,

Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng.

Em chồng ở với chị dâu,

Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày.

Con cô, con cậu thì xa,

Con chú, con bác thật là anh em.

  • Đói thì ăn ngô, ăn khoai,

Đừng ở với dượng, điếc tai láng giềng.

  • Đường đi những lách cùng lau,

Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con.

Duyên sao cắc cớ, hỡi duyên!

Cầm gương, gương tối, cầm vàng, vàng phai.

  • Đừng nài lương giáo khác dòng,

Vốn đều con Lạc cháu Hồng khi xưa.

  • Đôi ta như cái đòng đòng,

Đẹp duyên, nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha.

  • Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,

Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông.

Thân em như chẽn lúa đòng đòng,

Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai.

  • Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,

Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say.

  • Đồn rằng quan tướng có danh,

Cưỡi ngựa một mình, chẳng phải vịn ai.

Ban khen rằng:"Ấy mới tài",

Ban cho cái áo với hai đồng tiền.

Đánh giặc thì chạy trước tiên

Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra!

Giặc sợ, giặc chạy về nhà

Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân!

  • Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,

Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.

  • Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu

Anh về học lấy chữ Nhu

Chín trăng em đợi mười thu em chờ.

  • Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc,

Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân,

Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần,

Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run.

  • Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,

Nước Đồng Mười lóng lánh cá tôm,

Muốn ăn bôn súng mắm kho,

Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm,

E - Ê[sửa]

  • Em như hoa gạo trên cây

Anh như một đám cỏ may bên đường.

Lạy trời cho cả gió sương,

Hoa gạo rụng xuống, lại luồn cỏ may.

Em liều một cái bánh bò

Còn nào chót chét,cặp giò chặt hai.

G[sửa]

  • Gió đưa cây cải về trời,

Rau răm ở lại, chịu lời đắng cay.

  • Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.

  • Gánh cực mà đổ lên non,

Cong lưng mà chạy, cực còn theo sau.

  • Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,

Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân?

  • Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa,

Trai Thủ Thừa cưỡi ngựa xuống mua.

  • Gái Thái Bình lòng ngay dạ thẳng,

Trai bạc tình một cẳng về quê.

  • Gắng công kén hộ cốm Vòng

Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui

  • Gà khôn gà chẳng đá lang

Gái khôn gái chẳng bỏ làng gái đi.

H[sửa]

  • Hoa thơm ai chẳng muốn đeo,

Người khôn ai nỡ cứ theo nặng lời.

  • Hoa thơm ai chẳng nâng niu,

Người khôn ai chẳng mến yêu mọi bề.

  • Hôm qua tát nước đầu đình,

Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.

Em được thì cho anh xin,

Hay là em (còn) để làm tin trong nhà.

  • Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy,

Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa.

Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa,

Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.

Em với anh cũng muốn kết tóc ở đời,

Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan.

  • Học trò xứ Quảng ra thi

Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành

  • Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô tát ánh trăng vàng đổ đi

I[sửa]

Ích nước lợi nhà

L[sửa]

  • Làm trai cho đáng nên trai,

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.

  • Lời nói chẳng mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

  • Làm trai lấy được vợ hiền,

Như cầm đồng tiền mua được của ngon.

  • Làm trai quyết chí tu thân,

Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.

  • Lên non mới biết non cao,

Nuôi con mới biết công lao mẹ hiền.

  • Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên,

Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày.

Mậu Thìn vốn thiệt năm nay,

Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang.

Phong Thạnh vốn thiệt tên làng,

Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung.

Anh em Mười Chức công khùng,

Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...

  • Lênh đênh ba mũi thuyền kề,

Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu.

  • Lênh đênh ba bốn thuyền kề,

Chiếc ra Hà Nội, chiếc về sông Dâu.

Vì tằm em phải hái dâu,

Vì người lịch sự em ngồi rầu bên nong.

Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,

Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì.

Gió đưa cây trúc ngã quỳ

Ba năm trực tiết còn gì là xuân?

  • Lênh đênh qua cửa Thần Phù

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

  • Làng tôi có lũy tre xanh,

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.

Bên bờ vải nhãn hai hàng,

Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.

M[sửa]

  • Muốn sang thì bắc Cầu Kiều

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.

  • Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

  • Mười năm lưu lạc giang hồ,

Một ngày tu tỉnh, cơ đồ lại nên.

  • Mấy đời bánh đúc có xương,

Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng.

  • Mẹ già như chuối chín cây,

Gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi.

  • Mình về có nhớ ta chăng,

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.

  • Một năm chia mười hai kỳ,

Thiếp ngồi, thiếp tính khó gì chẳng ra.

Tháng giêng ăn tết ở nhà,

Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.

Tháng ba đi bán vải thâm,

Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.

Tháng sáu em đi buôn bè,

Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.

Chín mười cắt rạ đồng mùa,

Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng.

Anh ăn rồi anh lại nằm,

Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.

Chẳng thà lấy chú lực điền,

Gạo bồ, thóc giống còn phiền nỗi chi.

N[sửa]

  • Nhà Bè nước chảy chia hai,

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

  • Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,

Như đứng đống lửa như ngồi đống than.

  • Người đâu gặp gỡ làm chi,

Trăm năm biết có duyên đường hay không.

  • Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

  • Nực cười châu chấu đá xe,

Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.

  • Ngoài miệng thì nói Nam mô,

Trong lòng thì chứa ba bồ dao găm.

  • Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo,

Nghèo tiền nghèo bạc chả lo là nghèo.

  • Ngó lên nuộc lạt mái nhà,

Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu

  • Nam Kì sáu tỉnh em ơi

Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn,

Sông Hương nước chảy trong luôn,

Núi Ngự danh tiếng cả muôn dặm ngoài.

  • Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?

  • Ngang lưng thì thắt bao vàng,

Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.

Một tay thì cắp hỏa mai,

Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.

Tùng tùng trống đánh ngũ liên,

Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa.

  • Người ta rượu sớm trà trưa,

Thân em đi sớm về trưa cả đời.

Lạy trời ứng nghiệm một lời,

Cho em gặp được một người em thương.

  • Người ta bán vạn mua ngàn,

Thân em buôn bán cơ hàn vẫn vui.

  • Người ta đi đôi về đôi,

Thân em đi lẻ về côi một mình.

  • Người ta đi cấy lấy công,

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.

Trông trời, trông đất, trông mây,

Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.

Trông cho chân cứng đá mềm,

Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.

  • Núi cao chi lắm núi ơi,

Núi che mặt trời chẳng thấy người thương!

  • Nói chín thì nên làm mười

Nói mười làm chín kẻ cười người chê.

*Người ta đi cấy lấy công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề

:Trong trời trông đất trông mây

Trong mưa trông nắng trông ngày trông đêm

:Trông cho chân cứng đá mềm

Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng

O - Ô - Ơ[sửa]

  • Ở đời muôn sự của chung,

Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.

  • Ớt nào mà ớt chẳng cay,

Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng

Vôi nào là vôi chẳng nồng,

Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.

  • Ở sao vừa được lòng người,

Ở rộng người cười, ở hẹp người chê

P[sửa]

  • Phượng hoàng ở chốn cheo leo,

Sa cơ lỡ vận phải theo đàn gà.

Bao giờ gió thuận mưa hòa,

Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng.

  • Phải duyên phải kiếp thì theo,

Cám còn ăn được, nữa bèo như anh.

  • Phấn son tô điểm sơn hà,

Làm cho rỡ mặt đàn bà nước Nam.

  • Phong lưu là cạm ở đời,

Hồng nhan là bẫy những người tài hoa.

  • Phượng hoàng đậu nhánh vông nem,

Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi.

Ngã tư Chợ Gạo nước hồi,

Tui chồng mình vợ còn chờ đợi ai.

Q[sửa]

  • Qua cầu ngả nón trông cầu,

Cầu bao nhiêu nhịp, ngả sầu bấy nhiêu.

  • Qua đình ngả nón trông đình,

Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.

  • Quảng Nam có núi ngũ hành,

Có sông Chợ Củi, có thành Đồng Dương.

  • Quan văn mất một đồng tiền,

Xem bằng quan võ mất quyền quận công.

  • Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,

Nay anh học gần, mai anh học xa.

Lấy anh từ thuở mười ba,

Đến năm mười tám thiếp đà năm con.

Ra đường thiếp hãy còn son,

Về nhà thiếp đã năm con với chàng.

  • Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,

Nay anh học gần, mai anh học xa.

  • Tiền gạo thì của mẹ cha,

Cái nghiên, cái bút thật là của em.

  • Quân tử là quân tử Tàu,

Ăn cơm thì ít, ăn rau thì nhiều.

R[sửa]

  • Ra đi là sự đã liều,

Nắng mai phố lạ, mưa chiều thôn xưa.

  • Rồng vàng tắm nước ao tù,

Người khôn ở với người ngu bực mình.

  • Rượu nhạt uống lắm cũng say,

Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.

  • Rủ nhau đi cấy đi cày,

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.

  • Rủ nhau xuống bể mò cua,

Đem về nấu quả me chua trên rừng.

Em ơi chua, ngọt đã từng,

Non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau.

  • Ruộng đồng mặc sức chim bay,

Nước sông lai láng cá bầy đua bơi.

  • Rừng có mạch, vách có tai,

Người trong chưa tỏ, người ngoài đã hay.

  • Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn,

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?

  • Ra đi ngó trước ngó sau,

Ngó nhà thấy cột, ngó nhau thấy buồn.

  • Ra đường bà nọ bà kia,

Về nhà không khỏi cái nia cái sàng.

Ra đường võng lộng nghêng ngang,

Về nhà hỏi vợ cơm rang đâu rồi ?

  • Ra sông mới biết cạn sâu,

Ở trong lạch hói, biết đâu mà dò.

  • Ra về bụng nhớ người thương,

Tay vỗ thanh giường chép miệng thở than!

  • Ra về ruột nọ quặn đau

Nhơn sâm sắc uống mấy tàu cho nguôi.

Rau muống bắt cuống rau răm,

Làm chi đến nỗi chàng cầm cổ tay.

  • Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng,

Dù thương cho lắm cũng chồng người ta.

  • Rau răm hái ngọn còn tươi,

Lạng nghe anh nói mấy lời mà cay.

Kể chi những chuyện trước đây,

Lòng em tưởng những núi này, non kia.

  • Rèm xưa ba bức mành manh,

Mắt cô thế ấy tu hành được đâu.

  • Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai,

Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,

Thương người quân tử lạc loài tới đây.

  • Rồng nằm bể cạn phơi râu,

Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi.

  • Ru con con ngủ cho rồi,

Mẹ ra chỗ vắng, mẹ ngồi than thân.

  • Ruộng ai thì nấy đắp bờ,

Duyên ai nấy gặp, đừng chờ uổng công.

  • Rủ nhau đi cấy đi cày,

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.

  • Rượu lạt uống lắm cũng say,

Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.

  • Rượu nằm trong nhạo chờ nem,

Qua nằm thuyền vắng chờ em một mình.

  • Rừng như biển thánh khôn dò,

Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra.

S[sửa]

  • Số giàu đem đến dửng dưng,

Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.

  • Số giàu tay trắng cũng giàu,

Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.

  • Sông sâu có thể bắc cầu,

Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò.

  • Sông sâu còn có kẻ dò,

Lòng người nham hiểm ai đo cho tường.

  • Sông dài cá lội biệt tăm,

Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.

Ruộng ai thì nấy đắp bờ,

Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công.

  • Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.

Số cô có vợ có chồng,

Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.

  • Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy,

Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng,

Ai về Mỹ Thuận, Tiền Giang,

Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa?

  • Sài Gòn có bến Chương Dương,

Có dinh Độc Lập có đường Tự Do.

T[sửa]

  • Thời giờ ngựa chạy, tên bay,

Hết trưa lại tối, hết ngày lại đêm.

Đông qua Xuân lại đến liền,

Hè về rực rỡ, êm đềm Thu sang.

Giờ con chăm học, chăm làm,

Thì mai sau sẽ giỏi dang giúp đời.

Nước nhà mong đợi con ơi,

Hãy luôn ghi nhớ những lời thầy khuyên.

  • Trăm năm đành lỗi hẹn hò,

Cây đa bến cũ, con đò khác đưa.

  • Trăm năm bia đá thì mòn,

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

  • Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,

Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.

  • Trong đầm gì đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.

Nhị vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

  • Ta về ta tắm ao ta,

Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.

  • Trứng rồng lại nở ra rồng,

Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

  • Tay bưng dĩa muối chấm gừng,

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

  • Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

  • Thân em như hạt mưa sa,

Hạt xuống giếng ngọc, hạt ra ruộng cày.

  • Thôi thà đừng biết cho xong,

Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.

  • Tròng trành như nón không quay,

Như thuyền không lái như ai không chồng.

Gái có chồng như gông đeo cổ,

Gái không chồng như mảnh gỗ long đinh.

Gỗ long đinh anh còn chữa được,

Chớ không chồng chạy ngược chạy xuôi,

Không chồng khổ lắm chị em ơi!

  • Thuyền ơi có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng nhớ thuyền. (khăng khăng đợi thuyền.)

  • Tiếc thay hột gạo trắng ngần,

Đã vo nước đục, lại vần than rơm.

  • Tiếc thay hạt gạo tám xoan,

Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.

  • Tóc mai sợi vắn sợi dài,

Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm.

  • Trách ai tính chuyện đa đoan,

Đã hái được mận lại toan bẻ đào.

  • Trách người quân tử vô danh,

Chơi hoa xong lại bẻ cành bán rao.

  • Trúc xinh trúc mọc đầu đình,

Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

  • Thân tui thui thủi một mình,

Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang.

Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng,

Tôi xin được dạo cung đàn tình chung.

  • Thức khuya mới biết đêm dài,

Ở lâu mới biết lòng người có nhân.

  • Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay.

Ba đồng một mớ trầu cay,

Sao anh không hỏi những ngày còn không.

Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng, như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,

Chim vào lồng biết thuở nào ra.

  • Thương thay thân phận con tằm,

Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

Thương thay lũ kiến li ti,

Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

Thương thay hạc lánh đường mây,

Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

Thương thay con cuốc giữa trời,

Dầu kêu ra máu co người nào nghe.

  • Thân em như trái bần trôi,

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.

  • Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi, nếm thử mà xem

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

  • Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

  • Thân em như cá giữa rào,

Kẻ chài, người lưới biết vào tay ai?

  • Thân em như cam quýt bưởi bòng

Ngoài tuy cay đắng trong lòng ngọt ngon.

  • Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay.

  • Thân em như ớt chín cây,

Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng.

  • Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

  • Thân em như miếng cau khô,

Người thanh tham mỏng, kẻ thô tham dày.

  • Thân em như chiếc chổi đầu hè,

Để anh khuya sớm đi về chùi chân.

  • Thân em như cái cọc rào,

Mọt thì anh đổi, cớ sao anh phiền.

  • Thân em như cái sập vàng,

Anh như manh chiếu rách giữa đàng bỏ quên.

Lạy trời cho gió cả lên,

Cho manh chiếu rách trải trên sập vàng.

  • Thân em như trái xoài trên cây,

Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc,

Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành,

Một mai rơi xuống biết đành vào tay ai?

  • Thân em như rau muống dưới hồ,

Nay chìm mai nổi biết ngày mô cho thành?

  • Thân em như đóa hoa rơi,

Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?

  • Thân em như cánh hoa hồng,

Lấy phải thằng chồng như đống cỏ khô.

  • Thân em như cá trong lờ,

Hết phương vùng vẫy biết nhờ nơi đâu.

  • Thân em đi lấy chồng chung,

Khác nào như cái bung xung chui đầu.

  • Thân em như quả dưa tây,

Lâu lâu anh bóp cho lây nỗi buồn.

  • Thân em như thể cánh bèo,

Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi.

  • Thân em vất vả trăm bề,

Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng dâu.

Có lược chẳng kịp chải đầu,

Có cau chẳng kịp têm trầu mà ăn.

  • Thân em như cột đình trung,

Tay dơ cũng quẹt, tay phung cũng chùi.

  • Thân em như cúc mọc bờ rào,

Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ bông.

  • Thân em như miếng bánh xèo,

Nằm trong chạn bếp... biết mèo nào tha.

  • Thân em như tấm lụa điều,

Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương.

  • Thân em như cá trong bồn,

Không ăn có chịu, tiếng đồn oan chưa!

  • Thân em như cái chuông vàng,

Để trong thành nội có ngàn quân canh.

Thân anh như thể cái chày,

Bỏ lăn bỏ lóc chờ ngày dộng chuông.

  • Thân em chẳng đáng mấy tiền,

Vì tình em nặng, mấy nghìn cũng mua.

  • Thân em như mấy củ khoai,

Sáng sáng anh đói, anh nhai đỡ lòng.

  • Thân em như cỏ ngoài đồng,

Buồn thì anh nhổ, anh trồng rau răm.

  • Thân em như cánh chuồn chuồn,

Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.

  • Thân em như giọt nắng xuân,

Mơ vào cửa phủ thấm vần thơ anh.

  • Thanh Trì có bánh cuốn ngon,

Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng.

Thanh Trì cảnh đẹp người đông,

Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

  • Trầu Bà Điểm xé ra nửa lá,

Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi,

Buồn tình gá nghĩa mà chơi,

Hay là anh quyết ở đời với em?

  • Thương thay thân phận con rùa,

Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia.

  • Thương thay cây quê giữa rừng,

Cay nồng ai biết, ngát lừng ai hay.

  • Thương thay thân phận đàn bà,

Hơn hai, ba tuổi vẫn là đàn em.

  • Trầu Đồng Nai trầu ăn nhả bã,

Thuốc Đồng Môn thuốc hút phà hơi.

Trầu nồng thuốc thắm ai ơi,

Gá duyên chồng vợ ở đời trăm năm.

  • Tháng chạp là tháng trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.

Tháng ba cày vỡ ruộng ra,

Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng.

Ai ai cùng vợ cùng chồng,

Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay.

Tháng năm gặt hái đã xong,

Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.

Năm nong đầy em xay em giã,

Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.

Sang năm lúa tốt tiền nhiều,

Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.

Đói no có thiếp có chàng,

Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.

  • Tháng giêng là tháng ăn chơi,

Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.

Tháng ba thì đậu đã già,

Ta đi, ta hái về nhà phơi khô.

Tháng tư đi tậu trâu bò,

Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.

Sớm ngày đem lúa ra ngâm,

Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.

Gánh đi, ta ném ruộng ta,

Đến khi nên mạ, thì ta nhổ về.

Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,

Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.

Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,

Nước ruộng vơi mười, còn độ một hai.

Ruộng thấp đóng một gàu giai,

Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng.

Chờ cho lúa có đòng đòng,

Bây giờ ta sẽ trả công cho người.

Bao giờ cho đến tháng mười,

Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.

Gặt hái ta đem về nhà,

Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.

  • Tháng giêng chân bước đi cày,

Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng.

Thuận mưa lúa tốt đằng đằng,

Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà.G

  • Tháng giêng ăn tết ở nhà,

Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.

Tháng tư đong đậu nấu chè,

Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.

Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,

Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.

Tháng tám chơi đèn kéo quân,

Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.

Tháng mười buôn thóc, bán bông,

Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.

  • Trời cho cày cấy đầy đồng,

Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê.

Một mai gặt lúa đem về,

Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.

  • Trâu ơi ta bảo trâu này,

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

Cấy cày vốn nghiệp nông gia,

Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

Thằng Sang nói chuyện lung tung

Thằng Trung nói chuyện mọi người dễ nghe

thằng Sang như con chó đẻ

Nó ngu hơn cả thằng điên giữa đường

U[sửa]

  • Uốn cây từ thuở còn non

Dạy con từ thuở con còn ngây thơ

  • Ước gì sông rộng một gang,

Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.

  • Ước gì anh hóa ra gương,

Để cho em cứ ngày thường em soi.

Ước gì anh hóa ra cơi,

Để cho em đựng cau tươi trầu vàng.

  • Uốn tre uốn thuở còn măng,

Dạy vợ dạy thuở băn khoăn mới về.

  • Ước gì sông hẹp một gang,

Bắc cầu trải gấm cho chàng sang chơi.

V[sửa]

  • Về ăn bánh đúc lá đa,

Người ơi người hỡi công cha ngày ngày.

  • Văn chương đựng không đầy lá mít,

Võ thì đá không bể nổi mảnh sành,

Nghe vua treo bảng cũng xòng xành ra thi.

Bảng đề không biết chữ chi,

Mài nghiên, mút bút có khi hết ngày.

  • Ví dầu dượng cháu người dưng,

Cháu cho dượng lấy dượng cưng suốt đời.

  • Văn chương phú lục chẳng hay,

Trở về làng cũ, học cày cho xong.

Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,

Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.

Hết mạ ta lại quảy thêm,

Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.

Nữa mai lúa chín đầy đồng,

Gặp về đập sảy bõ công cấy cày.

X[sửa]

  • Xa xôi em chớ ngại ngùng,

Xa người, xa tiếng nhưng lòng không xa.

  • Xấu xa cũng thế chồng ta,

Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.

Y[sửa]

  • Yêu nhau yêu cả đường đi,

Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.

  • Yêu nhau mấy núi cũng trèo,

Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.

  • Yêu nhau cởi áo trao nhau,

Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.

  • Yêu nhau củ ấu cũng tròn,

Ghét nhau thì củ bồ hòn cũng vuông.

  • Yêu nhau cau bảy bổ ba,

Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.

Những bài ca dao khác[sửa]

  • Tiền trao cháo múc

Không tiền cháo trút trở ra

Tin nhau buôn bán cùng phịch nhau

Thiệt hơn, hơn thiệt, trước sau như lời

Thay gì lừa đảo kiếm lời

Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang

Theo chi những thói gian tham

Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau

Của phi nghĩa có giàu đâu

Ở cho ngay thật giàu sau mới bền

  • Mẹ già như chuối ba hương,

Như cơm nếp mật, như đường mía lau.

Đường mía lau càng lâu càng ngát,

Cơm nếp mật ngào ngạt hương say.

Ba hương lây lất tháng ngày,

Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi.

Mẹ già như áng mây trôi,

Như sương trên cỏ, như lời hát ru.

Lời hát ru vi vu trong gió,

Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan.

Mây trôi lãng đãng trên ngàn,

Gió đưa tan, hợp, hợp, tan, nao lòng.

Xem tiếp[sửa]

  • Ca dao Việt Nam châm biếm, hài hước
  • Ca dao Việt Nam về tình yêu quê hương, đất nước, con người
  • Ca dao Việt Nam về quan hệ xã hội
  • Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình
9 tháng 9 2018
  • Cần Thơ là tỉnh,

Cao Lãnh là quê,

Anh đi lục tỉnh bốn bề,

Mải đi buôn bán chẳng về thăm em.

  • Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No,

Anh có thương em, xin sắm một con đò, Để em qua lại mua cò gởi thơ.

  • Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,

Anh có thương em, cho bạc cho tiền,

Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.

  • Con trai trong Quảng ra thi,

Thấy con gái Huế chân đi không đành.

  • Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,

Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.

Viết thư thăm hết mọi nhà,

Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.

  • Chỉ điều xe tám, đậu tư,

Anh đi Gia Định thư từ cho em.

  • Chị Hươu đi chợ Đồng Nai

Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.

  • Chợ Sài Gòn cẩn đá

Chợ Rạch Giá cẩn xi măng

Giã em xứ sở vuông tròn

Anh về xứ sở không còn ra vô.

ngu di ba oi, sao ba con thuc nuaa

1 tháng 1 2023

tui cũng kbic nuaaa, ngồi đợi xem ai cmt.-.

25 tháng 10 2020

giải 

số phần trang còn lại sau khi đọc lần thứ 1 là :

   \(1-\frac{2}{7}=\frac{5}{7}\) ( số trang )

lần thứ hai đọc đươc số phần trang của quyển sách là :

  \(\frac{5}{7}\cdot\frac{9}{20}=\frac{9}{28}\) ( số trang )

phân số chỉ số trang lần thứ 3 đọc là :

   \(1-\frac{2}{7}-\frac{9}{28}=\frac{11}{28}\) ( số trang )

số trang của quyển sách Hoa đoc là :

   \(44:\frac{11}{28}\) \(=112\) ( trang )

đáp số : 112 trang 

31 tháng 1 2021

Tham khảo: ??

 

I. Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả Hàn Mặc TửGiới thiệu khái quát về bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ"

"Đây thôn Vĩ Đã" là một bài thơ ấn tượng của Hàn Mặc Tử được ông viết năm 1938, lấy cảm hứng từ mối tình với Hoàng Cúc - cô gái thôn quê Vĩ Dạ đoan trang, truyền thống. Với cảm xúc dạt dào, chân thành và cái tài làm thơ được gửi gắm khéo léo, Hàn Mặc Tử cùng tác phẩm đã tạo được nhiều dấu ấn đẹp đẽ trong trái tim biết bao con người yêu văn, say thơ từ thuở đó đến bây giờ.

II. Thân bài:

1. Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm:

a. Tác giả:

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, các bút danh là Hàn Mặc Tử, Phong Trần, Lệ Thanh.Qua ông ở Đồng Hới, Quảng Bình. Gia đình viên chức nghèo, theo Đạo Thiên chúa.Năm 1940, ông mất ở Tuy Hoà khi mới 28 tuổi.Cuộc đời Hàn Mặc Tử bất hạnh khi ông mắc bệnh hiểm nghèo giữa tuổi thanh xuân, cuộc đời ông ngắn ngủi, chết trong cô đơn ở trại phong Tuy Hoà.Về con người, Hàn Mặc Tử với thân xác bị phá hủy bởi bệnh tật đến tàn tạ, thống khổ nhưng tâm hồn lại khao khát hướng về con người, cuộc đời.Sáng tác của Hàn Mặc Tử mang hai tiếng nói chính là tiếng nói của máu cuồng và hồn điên tạo nên sự kỳ dị, ma quái và tiếng nói của yêu thương, khao khát tạo nên nét trong trẻo, thanh khiết.

b. Tác phẩm:

In trong tập "Thơ điên", sau đổi tên thành "Đau thương".Sáng tác năm 1938, khi Hàn Mặc Tử mắc bệnh hiểm nghèo sống cách ly để chữa bệnh. Ông lấy cảm hứng từ mối tình của Hoàng Cúc - một cô gái thôn quê Vĩ Dạ đoan trang, truyền thống.

2. Phân tích tác phẩm:

a. Khổ 1:

Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ" là một câu hỏi đa sắc điệu, giống như lời hờn trách nhẹ nhàng hay lời mời mọc tha thiết.Hai chữ "không về" là một uẩn khúc bởi "không về" chứ không phải "chưa về" vì "chưa về" còn mở ra cơ hội còn "không về" là khao khát nhưng không về được.chữ "anh" trong câu thơ gợi ta hiểu nhân vật đang tự phân thân hỏi chính mình, đang khao khát trở về Vĩ Dạ.Cụm từ "nắng hàng cau" gợi hình ảnh những tia nắng đầu tiên của ngày mới chiếu qua thân cau cao vút, thẳng tắp, phát ra ánh lung linh, tinh khôi. "Nắng mới lên" một lần nữa nhấn mạnh đấy là nắng sớm, thứ ánh nắng thiếu nữ vừa rạng rỡ vừa trong trẻo, điệp từ "nắng" đã gợi nên vẻ đẹp thanh khiết của ánh sáng.Từ "mướt" là nhãn tự câu thơ, ánh lên vẻ đẹp mượt mà, óng ả của khu vườn với cây lá xanh non tràn đầy sức sống. Hình ảnh so sánh "xanh như ngọc" đã gợi ra sắc xanh ngời lên trong vẻ đẹp lộng lẫy, cao sang. Nếu hai câu trên điệp hai lần từ "nắng" thì đến hai câu này nhà thơ hai lần nhấn vào sắc xanh. Thi sĩ không tả màu mà gợi sắc, từ "mướt quá" đã tột cùng hoá vẻ đẹp thôn Vĩ, làm bật lên vẻ đẹp thanh tân của khu vườn,.đó là ngôn ngữ của những cảm xúc, ấn tượng, của niềm tha thiết ngắm nhìn thôn Vĩ.Sắc diện con người hiện lên với mặt chữ điền cân đối hài hòa, "lá trúc che ngang mặt chữ điền" gợi ra vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng, đậm chất Huế vì nó hiện lên thấp thoáng, ẩn hiện sau cành lá trúc che ngang. Thủ pháp cách điệu hóa làm cho con người hiện ra giữa vườn thôn Vĩ trong vẻ đẹp thanh tú.Bức tranh thôn Vĩ trong hoài niệm của tác giả hiện ra mang vẻ đẹp tươi sáng với nắng thanh khiết, vườn thanh tân, người thanh tú, tất cả gợi lên một vẻ đẹp thánh thiện. Với Hàn Mặc Tử, hình ảnh khu vườn là hình ảnh thực mang màu sắc tượng trưng, khu vườn mơ ước, là hiện thân của cái đẹp thánh thiện, quý phái mà nhà thơ khao khát hướng tới.

b. Khổ 2:

Hình ảnh thơ mang tính chất siêu thực, nhà thơ phá vỡ logic hiện thực: gió thổi, mây bay, ngắt nhịp thơ từ câu có nhịp 4/3 chia thành nhiều câu nhỏ.Nhân hoá: gieo nỗi buồn vào lòng sông, biến dòng sông ngoại cảnh thành dòng chảy tâm trạng.Cảnh ở đây không còn là cảnh thực mà thấm đẫm tâm trạng, cảm xúc. Đặt vào hoàn cảnh sáng tác, mặc cảm chia lìa bắt nguồn từ cảnh ngộ riêng của nhân vật trữ tình, tâm hồn tràn đầy khao khát mà sức sống cạn kiệt dần.Câu hỏi tu từ "Thuyền ai đâu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?": cảnh chuyển từ hư thực thành mộng ảo, hình ảnh một con thuyền chở đầy trăng trôi trên dòng sông trăng về một bến trăng xa xôi nào đó, thuyền ở đây là "thuyền ai" gợi sự mơ hồ, xa cách. Hình ảnh "bến sông trăng" như thuộc về một cõi khác chứ không phải bến trần gian trong đời thực, cả không gian tràn ngập ánh trăng, cái thực cái ảo đồng điệu, vừa gần gũi vừa xa vời, tất cả đều lung linh như ánh trăng, ánh sáng của tình yêu và cái đẹp hiện diện như một điểm tựa an ủi, cứu rỗi, một khao khao khát không thể đạt được.Câu hỏi tu từ "Có chở trăng về kịp tối nay?" vọng lên khắc khoải, da diết như một bức thông điệp về một kiếp sống ngắn ngủi, thể hiện tâm trạng mong ngóng và âu lo, dường như dòng sông ở đây là dòng đời phiêu tàn còn con thuyền là tình yêu xa xôi và bến trăng là bến bờ hạnh phúc hư ảo.

c. Khổ 3:

Các từ "sương khói", "đường xa" gợi ra không gian huyền hoặc bất định, đọng lại chỉ là một vùng sương khói hư ảo, hình ảnh con người xa dần mờ dần rồi trở thành hư ảnh trong cảm nhận của nhân vật trữ tình.Đầu tiên nhà thơ nói "khách đường xa" - con người có thật nhưng xa xôi rồi đến "em" - "áo trắng": hư-thực và chập chờn, cuối cùng là "nhân ảnh"- con người hiện diện như một ảo ảnh xa mờ.Câu hỏi tu từ kết thúc bài "Ai biết tình ai có đậm đà?" đượm nỗi hoài nghi, đại từ phiếm chỉ "ai" được sử dụng rất tài tình gợi ra hình ảnh thơ đa nghĩa với những cách diễn giải khác nhau: "ai" ở đây có thể là giai nhân, là con người hoặc cũng có thể là cõi đời đang hiện diện ngoài kia mà nhà thơ không thể nào đến gần, cảm nhận và nắm bắt. "Tình ai" có thể hiểu là tình yêu, rộng hơn là tình đời, tình người đối với thi nhân, giờ đều trở nên huyền hoặc, khó xác định.

III. Kết bài:

Khẳng định lại giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật.

"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh đẹp về một miền quê của đất nước đồng thời là tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với cuộc sống con người .Ngôn ngữ sử dụng trong bài trong sáng, tinh tế và đa thanh. Hình ảnh thơ gợi cảm, sinh động, đậm màu sắc tượng trưng siêu thực. Cấu trúc ba câu hỏi ở ba khổ thơ gợi cảm xúc đi từ khao khát đến phấp phỏng, âu lo, từ hi vọng đến hoài nghi, xót xa, mỗi câu hỏi trong khổ thơ như gõ vào cánh cửa cuộc đời thể hiện niềm thiết tha với cuộc sống ở tác giả.

31 tháng 1 2021

Đây là bạn phân tích bài thơ rồi, còn câu mìng hỏi là lấy bài thơ để chứng minh cho câu nhận định đó á :v

24 tháng 7 2021

Tham Khảo:

Có quan điểm cho rằng “Đọc một bài thơ là ta bắt gặp tâm hồn của một con người”. Theo em, đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn với bài thơ Bạn đến chơi nhà của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Nhà thơ Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho nền văn học trung đại Việt Nam. Dù cho học rộng tài cao nhưng do chán ghét cuộc sống quan trường nên ông đã lùi về ở ẩn, hưởng thụ cuộc sống bình dị hàng ngày. Bài thơ "Bạn đến chơi nhà" của Nguyễn Khuyến thể hiện cho một tình bạn đẹp giữa ông và người bạn thân của mình. Tình bạn ấy đã vượt qua mọi thứ của cải vật chất, những người bạn đến với nhau bằng tình cảm và lòng chân thành. Tâm hồn của nhà thơ là một tâm hồn trong sáng, trân trọng tình bạn đẹp, giản dị và cao quý, chân thành. Bài thơ được ra đời trong những năm tháng mà ông cáo quan về ở ẩn và một hôm có người bạn thân đến chơi nhưng Nguyễn Khuyến lại không có gì để đãi bạn cả. Bài thơ với lối nói hóm hỉnh tươi vui đã thể hiện được 1 tình bạn ko câu nệ vật chất. "Đã bấy lâu nay bác tới nhà" mở đầu gợi ra hoàn cảnh người bạn đến chơi nhà. Người xưa có quan niệm quý khách nên khi khách đến thì sẽ thiết đãi rất lớn nên câu thơ làm người đọc nghĩ là chắc chắn nhà thơ sẽ thiết đãi bạn thật hậu hĩnh. "Trẻ thời đi vắng, chợi thời xa" gợi ra hoàn cảnh tiếp khách của nhà thơ. Trẻ con thì không có nhà để sai bảo mua đồ tiếp khách, chợ thì quá xa không thể đi. Tuy nhiên những khó khăn của tác giả đâu chỉ dừng lại ở đó. Từng cặp câu thơ đối nhau thể hiện khó khăn nối tiếp khó khăn của tác giả khi phải tiếp khách mà không có gì để đãi. "Ao sâu nước cả, khôn chài cá/ Vườn rộng rào thưa,khó đuổi gà" được sử dụng phép đối đặc trưng cho thơ trung đại. Vì ao sâu nước lớn mà không có lưới bắt cá cùng với đó là vườn rộng rào thưa không thể bắt gà, tác giả vẫn không có gì để thiết đãi bạn mình. Hai câu thơ tiếp"Cải vừa ra cây, cà mới nụ/ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa" thể hiện trong nhà thậm chí những thứ rau quả cũng ko có để mà tiếp bạn: cải còn non, cà mới có nụ, bầu và mướp đều chưa ăn được. Tình huống vẫn chưa dừng lại ở đó vì thậm chí nhà văn còn ko có nổi miếng trầu để tiếp bạn. Toàn bộ những câu thơ trên thể hiện sự thiếu thốn vật chất tột cùng của nhà văn. Nhưng sau tát cả, tình bạn của họ đã vượt qua tất cả những sự khó khăn, thiếu thốn ấy để chơi với nhau bằng tấm lòng chân thành. Tác giả đã khẳng định "một mảnh tình riêng, ta với ta". Tình cảm của họ được khẳng định bằng hình ảnh "mảnh tình", hai người đối xử với nhau chân thành, ko câu nệ vật chất. "Ta với ta" là những người bạn vẫn luôn có nhau ở bên. Với giọng thơ hồn nhiên, vui tươi, cũng như nghệ thuật xây dựng tình huống thơ đặc sắc, NK đã thể hiện được 1 tình bạn hồn nhiên, chân thành, ko câu nệ vật chất Bài thơ "Bạn đến chơi nhà" của NK đã thể hiện thành công được 1 tình bạn đẹp. Tất cả là nhờ lối nói hóm hỉnh, tươi vui cùng tình huống đặc sắc mà tác giả xây dựng. Từ đó, người đọc thấy được tâm hồn bình dị và cao đẹp của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

24 tháng 7 2021

chỉ một luận điểm thôi ak