Dựa vào văn bản "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" em hãy đóng vai Lục Vân Tiên kể lại sự việc này. Viết bài văn
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kì về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian.
Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này. “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa.
Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu. Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy.
Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp: “Vân Tiên tả đột hữu xông Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang Lâu la bốn phía vỡ tan Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay Phong Lai trở chẳng kịp tay Bị Tiên một gậy thác rày thân vong” Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống.
Tham Khảo
Bạn đọc dàn ý rồi tự làm một bài văn hoàn chỉnh theo ý mình nhé!!
a) Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Đình Chiểu là thầy thuốc, nhà thơ, nhà giáo - ngọn cờ đầu của thơ văn yêu nước Nam Bộ đầu thế kỉ XIX.
+ Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm được viết vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX ca ngợi tinh thần nghĩa hiệp, giúp đỡ giữa con người với con người, hướng tới lẽ công bằng.
- Giới thiệu khái quát 14 câu thơ đầu đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga : tái hiện cảnh Lục Vân Tiên đánh tan bọn cướp.
b) Thân bài
* Khái quát về đoạn trích:
- Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của Truyện Lục Vân Tiên.
- Giá trị nội dung: Khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, qua đó thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
* Phân tích 14 câu thơ đầu: Cảnh Lục Vân Tiên đánh cướp
- Giữa đường gặp chuyện bất bình thì sẵn sàng xả thân ra tay cứu giúp
+ Từ giã thầy, Vân Tiên xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí
+ Giữa đường thì gặp phải bọn cướp hãm hại dân lành liền hành hiệp trượng nghĩa.
=> Tính cách anh hùng, tài năng giúp đời và tấm lòng "vị nghĩa vong thân”
- Đối đầu với lũ cướp
+ Vân Tiên chỉ có một mình, tay không đánh cướp
+ Lũ cướp rất đông với gươm giáo sáng ngời
+ Không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy
+ Không hề run sợ, Vân Tiên xông vào đánh cướp
+ Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, tung hoành giữa bọn cướp.
- Kết quả trận đánh cướp
+ Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác
+ Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt.
=> Lục Vân Tiên mang cốt cách nghĩa sĩ thời loạn với cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử cao đẹp, đó là cách cư xử của một tinh thần hiệp nghĩa của các bậc hảo hán.
c) Kết bài
- Cảm nghĩ của em về 14 câu thơ đầu.
tham khảo
Năm ấy, khi nghe tin triều đình mở khoa thi, tôi đã rất hăng hái xin phép thầy xuống núi. Trước khi lên kinh đô, tôi về thăm cha mẹ. Vừa xuống núi, tôi đã nghe thấy tiếng người dân khóc than thảm thiết. Họ kéo nhau chạy tán loạn vào rừng để trốn. Thấy thế, tôi liền giữ một ông cụ đang hốt hoảng bỏ chạy lại để tìm hiểu sự tình. Ông cụ khuyên tôi rằng: “- Cháu hãy chạy đi nếu không muốn chết ! Lũ cướp rất đáng sợ, chúng trang bị rất nhiều vũ khí, chúng đang tàn phá nhà cửa và cướp bóc của cải của dân làng chúng tôi. Cậu hãy chạy mau đi, nghe lời lão đi! Hiện có một cô gái nghe nói xinh đẹp lắm đang bị chúng bắt lại và bị cướp hết vàng bạc rồi. Thôi lão đi đây….”
Vừa dứt lời, ông lão đã tức tốc chạy đi. Nghe thấy thế, ngọn lửa giận dữ trong tôi bùng cháy. Lũ cướp đang không biết hung bạo thế nào nhưng nhìn thấy dân làng hỗn loạn, sợ hãi, tôi thầm nghĩ chúng cũng tàn ác lắm. Nhất định tôi không thể bỏ qua chuyện này được, phải giúp họ thôi.
Không kịp nghĩ ngợi lâu, tôi ghé qua bên đường bẻ một cành cây dài làm gậy rồi nhanh như chớp xông vào giữa đám cướp quát lớn: “- Bớ đảng hung đồ kia! Tụi bây chớ quen làm thói hồ đồ mà hại dân vô tội”. Tôi nói vậy để bọn chúng nhận ra những việc làm sai trái của mình và cũng là đang mở ra cho chúng một con đường để thoát thân. Ngờ đâu tên tướng cướp mắt trợn ngược đầy hung tợn, mặt đỏ phừng phừng cầm thanh gươm sắc bén chỉ vào tôi và quát: “- Mày là thằng nào mà dám tới đây lớn tiếng thế? Không việc gì của mày mà can vào. Khôn hồn thì đi ngay chứ không đừng trách ta”. Nói rồi, tên tướng cướp hò hét bọn lâu la bao vây bốn phía quyết không cho tôi đường tháo chạy.
Trong vòng vây, bọn chúng người cầm gươm, người cầm giáo đằng đằng sát khí hô vang: “GIẾT! GIẾT! GIẾT!”. Tiếng gươm khua sắc lạnh, tiếng cười hét điên loạn, những khuôn mặt gớm ghiếc, nhưng ánh mắt chế nhạo nhìn tôi chằm chằm. Rồi chúng cứ thế mà xông vào, vung gươm, giáo nhằm tôi mà đâm. Tôi bình tĩnh quan sát. Bọn chúng tuy đông nhưng là bọn hữu dũng vô mưu, bất tài vô dụng, chỉ lấy đông hiếp yếu chứ chẳng tài cán gì. Rất nhanh, tôi cầm cây gậy đánh hết bên trái rồi đánh bên phải, triển hết tài nghệ mà thầy tôi đã truyền dạy.
Cứ thế, tôi tả xung hữu đột, đánh trước đánh sau, càn quét bốn phía. Những đòn đánh tuyệt diệu như rồng cuộn, hổ vồ làm chúng không biết đường đỡ, bị trúng đòn sợ đến kinh hồn. Nhiều tên gục ngã tại chỗ không gượng dậy nổi. Nhiều tên khác kêu la thảm thiết, thất thần không dám xông vào nữa cứ dè chứng bên ngoài mà hò hét.
Tôi tiếp tục vung gậy tới tấp. Chiếc gậy trong tay cứ vun vút lao vào đầu, vào người chúng. Đau quá, chúng vứt hết gươm giáo mà bỏ chạy tán loạn để thoát thân. Tên tướng cướp Phong Lai cũng bị tôi đánh cho một trận sống dở chết dở. Biết không địch nổi, hắn hò hét lũ lâu la bỏ chạy, không dám nhìn lại.
Dẹp xong lũ cướp hung tợn, tôi ân cần hỏi người gặp nạn. Hỏi ra thì mới biết nàng là Kiều Nguyệt Nga, người ở quận Tây Xuyên còn người kia là nàng hầu Kim Liên. Cha Kiều Nguyệt Nga là tri phủ ở miền Hà Khê. Ông mới cho người gửi thư rước nàng về để định bề gia thất. Dù không phải là người mà nàng muốn gắn bó nhưng vì là ý cha nên nàng đành chấp thuận. Nàng Nguyệt Nga thật là một cô gái hiếu thuận và đức hạnh.
Nàng kể rằng đang trên đường về nhà vâng lời cha thì chẳng may lại bị bắt lại, rất may tôi có mặt kịp thời giải nguy cho. Cảm ân đức giải nguy cứu mạng, Kiều Nguyệt Nga định bước ra khấu đầu, tôi liền ngăn cản. Nàng cảm kích lắm mời tôi ghé qua nhà nàng ở Hà Khê để đền ơn cho tôi. Vừa nghe nàng nói vậy, tôi liền cười lớn khước từ bởi việc tôi làm là tự nguyện, là vì thấy việc bất nghĩa thì không thể không xả thân chứ nào mong cầu lợi danh. Bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, thấy việc nghĩa quyết không từ nan, thấy người gặp nạn quyết ứng cứu, đó mới là nghĩa khí kẻ làm trai.
Tôi cảm tạ tấm chân tình ấy của nàng rồi từ biệt để lên đường về thăm cha mẹ. Trên đường đi, lòng tôi tràn ngập hân hoan vì vừa làm được một việc tốt, lại cũng vừa kiểm chứng tài nghệ đã luyện tập bấy lâu. Tôi đã giúp ích cho dân làng rồi. Tôi sẽ lại hăm hở lên đường để thi thố tài năng, cứu giúp những người khốn khó, diệt trừ lũ bạo ngược. Tôi chỉ mong nhân dân mãi luôn có được cuộc sống ấm no mà thôi. Lần này xuống núi, nhất định tôi sẽ làm rạng danh thầy, quyết ứng thí thành công, đem sức giúp ích cho đời.
Tham khảo!
Tôi là Kiều Nguyệt Nga, con gái tri phủ Hà Khê. Cha tôi vốn nghiêm khắc; ông muốn sắp đặt chuyện tình duyên của tôi nên cho gọi tôi từ quê nhà ở huyện Tây Xuyên qua Hà Khê để yên bề gia thất. Tôi dù không muốn nhưng phận làm con phải vâng lời cha mẹ liền đem theo cô hầu Kim Liên lên đường. Đường xa, phận gái yếu liễu đào tơ, nếu chẳng may giữa đường gặp chuyện chẳng lành thì biết xoay sở làm sao? Nghĩ thế tôi thấy rờn rợn.
Quả như điều tôi lo lắng, khi xe đến một quãng đường vắng xa nhà cửa không người qua lại, bất thình lình một toán cướp từ đâu xông tới chặn trước xe quát tháo, đòi vàng bạc. Tôi và Kim Liên vô cùng hoảng sợ. May thay, đúng lúc đó, một tiếng quát sang sảng vang lên:
- Lũ côn đồ kia, hãy dừng tay! Giữa ban ngày ban mặt sao dám chặn đường cướp bóc dân lành?
Bọn cướp thấy thế liền quay lại quát nạt, vây đánh chàng trẻ tuổi. Nhưng chàng trai, với cây gậy trong tay tả xung hữu đột đánh tan bọn cướp khiến chúng phải bỏ chạy tháo thân. Lúc đó tôi mới hoàn hồn, vui mừng khôn xiết. Chàng là ai nhỉ? Chàng tên gì? Chàng đi đâu, sao lại dám một mình xông vào bọn cướp? Sao lại ra tay cứu giúp khi chưa rõ trong xe là ai? Liệu đây có phải là duyên trời không?
Kim Liên khóc nức nở trong xe. Nghe tiếng khóc, chàng tiến lại hỏi han ân cần:
- Ai than khóc trong xe vậy?
Kim Liên đáp:
- Cô con chúng tôi là người lương thiện, gặp kẻ hung đồ, may có công tử ra tay cứu giúp. Đa tạ ơn công tử cứu mạng.
Nghe vậy, chàng đáp:
- Ta đã trừ bọn lâu la rồi, giờ thì không còn sợ gì nữa. Nhưng khoan, nàng đừng ra, nàng là phận gái cứ ngồi trong đó không phải ra làm gì. Chẳng hay tên nàng là gì, nàng là con gái nhà ai, thân liễu yếu đào tơ sao đi đâu dặm trường vắng vẻ thế này?
Tôi nghẹn ngào trong nước mắt:
- Thưa công tử, tiện thiếp tên Kiều Nguyệt Nga, còn đây là đầy tớ tên Kim Liên. Quê thiếp ở tận Tây Xuyên, cha thiếp làm tri phủ Hà Khê. Cha cho gọi thiếp qua đó để yên bề gia thất. Làm phận con đâu dám trái lời cha mẹ. Chẳng may giữa đường gặp nạn, may được công tử giải nguy. Nếu không trinh tiết, phẩm giá gìn giữ một đời cũng đã bỏ đi rồi.
Nói rồi, tôi sửa soạn khăn áo thưa tiếp:
- Mời công tử ngồi tạm trước xe để cho tiện thiếp được lạy tạ tỏ lòng biết ơn người cứu nạn. Thiếp chẳng biết làm thế nào cho phải. Ở đây, gặp gỡ giữa đường chẳng có bạc vàng, gấm vóc. May sao, Hà Khê cũng không xa lắm, xin chàng theo thiếp về bên đó để thiếp được dịp trả ơn chàng.
Chàng cười nói:
- Nàng chớ bận tâm làm gì. Ta làm ơn đâu phải để trông chờ trả ơn. Là đấng nam nhi, thấy việc nghĩa không làm thì đâu còn xứng mặt!
Nói xong, chàng cáo biệt. Tôi vẫn chưa biết tên chàng, ơn này bao giờ trả được?
Đóng vai người đi đường chứ không phải Kiều Nguyệt Nga em nhé!