phát biểu cảm nghĩ nỗi khổ người dân trong'' sống chết mặc bay''
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
+ Mở bài:
– Giới thiệu qua về tác giả, tác phẩm:
– Tác giả Phạm Duy Tốn sinh năm 1881 và mất năm 1924 quê tại Phú Xuyên, Hà Nội. Ông là nhà văn đại diện cho nền văn học hiện thực phê phán.
– Tác phẩm “Sống chết mặc bay” là một tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học hiện đại, phản ánh hiện thực lúc bấy giờ.
– Thông qua câu chuyện của mình tác giả muốn thể hiện cái nhìn nhân sinh quan đối với xã hội, sự thương cảm của mình với những người dân cùng đinh khốn khổ.
+ Thân bài
– Phân tích nội dung câu chuyện “Sống chết mặc bay” kể về một tên quan huyện có trách nhiệm phòng hộ đê, giúp dân chống lũ ở một huyện thuộc vùng Bắc Bộ của ta thời phong kiến.
– Phân tích nhân đề của tác phẩm là “Sống chết mặc bay” tác giả đã phản ảnh được sự vô trách nhiệm, bàng quan của một tên quan được xem là quan phụ mẫu (cha mẹ của dân)
– Trong tác phẩm thể hiện hai bức tranh hoàn toàn trái ngược nhau: Một bên là hình ảnh những người dân nghèo khổ, đang lo lắng dốc sức phòng hộ chống vỡ đê.
– Một bên là những quan chức phụ trách giúp dân hộ đê nhưng lại mải mê chơi trò đỏ đen, kiếm chác tiền bạc.
– Phân tích sự tha hóa của bọn quan lại, sự xuống cấp của xã hội, chế độ. Qua tác phẩm ta thấy được sự xuống cấp, sự thối nát của một chế độ đã đến giai đoạn suy thoái, để nhường lại cho một chế độ mới tiến bộ, phát triển hơn, có thể giúp cho người dân nhiều hơn.
– Tác giả Phạm Duy Tốn đã khéo léo sử dụng những chi tiết tương phản để tăng độ hấp dẫn của câu chuyện cũng như làm nổi bật sự đặc sắc thể hiện sự vô cảm của quan hiện với sự đau khổ sống chết của người dân.
– Tác giả cũng khôn khéo sử dụng cùng một lúc hai bút pháp nghệ thuật cho hai bức tranh cuộc sống để nói lên sự tương phản, sự thối nát của chế độ.
– Phân tích cảnh thời tiết, trời mưa tầm tã, người dân thì ướt sũng như “ chuột lột”, vất vả , cơ cực nhiều cam go, thử thách.
– Một bên là những tên quan chức, trong cuộc đỏ đen cũng cam go, thử thách không kém, chúng cũng sát phạt ăn thua nhau nảy lửa, cuộc chiến trên chiếu bạc cũng không kém phần thử thách gay cấn như cuộc chiến chống vỡ đê.
– Hình ảnh tên quan huyện vơ hết tiền thắng bạc nhét vào túi, và tên người làm vào thưa “Bẩm, đê có khi vỡ” thì hắn dửng dưng vô cảm nói “Mặc kệ” rồi khi nghe nói “Đê vỡ mất rồi” thì hắn nói lớn, đầy tức giận đòi “cắt cổ, bỏ tù” người khác. Qua đó bộc lộ rõ nét tính cách nhân vật. Hắn là kẻ vô cảm, tham lam và quan liêu, lạm quyền như thế nào?
– “Sống chết mặc bay” người đọc cảm thấy thấm thía nỗi khốn khổ của người dân khi phải sống trong một thời kỳ áp bức, bóc lột tới như vậy.
– Tình huống của câu chuyện nhiều tình tiết ly kỳ, hấp dẫn, nói viết tả thực xem lẫn hư cấu, tương phản làm cho câu chuyên mang nhiều màu sắc cảm xúc khác nhau.
+ Kết
– Qua tác phẩm “Sống chết mặc bay” tác giả Phạm Duy Tốn đã lên án mạnh mẽ bọn quan tham ô lại, mặt người dạ thú, chỉ biết sống cho mình, vơ vét lợi ích.
– Nó phản ánh sự xuống cấp về đạo đức của những người cầm đầu chế độ cũ, đòi hỏi sự thay đổi của chế độ nhằm phục vụ lợi ích của người dân tốt hơn.
Trong văn bản "Sống chết mặc bay", tác giả đã rất khéo léo làm rõ sự bất công oan trái của người dân trong xã hội phong kiến đương thời. Một bên là cảnh người dân lam lũ chống chọi thiên tai; một bên lại là cảnh quan "phụ mẫu" ăn chơi nhàn nhạ, ngồi đánh tổ tôm trong đình vững chãi, trông thật sung sướng làm sao! Quan vui vẻ bao nhiêu thì quan có biết người dân khổ bấy nhiêu đâu. Biết sức mk không địch lại đc sức trời nhưng vẫn cố gắng cầm cự vì cuộc sống mưu sinh chỉ trông chờ vào mảng ruộng bé tí tẹo, mùa gặt k đủ lo cho gia đình mà còn phải phục vụ quan "cha mẹ", thử hỏi đạo lí ở đâu?! Xin trình, đạo lí ấy kia kìa, đang rất là vô tư vui vẻ với chánh tổng, sở tại,... trông mới uy nghiêm "như thần như thánh" làm sao! Bằng 2 nghịch cảnh khác nhau, tác giả đã lên án tên quan lòng lang dạ thú mặt người và sự đày đọa khốn đốn của người nông dân xưa.
Vào thời xã hội phong khiến đã có rất nhiều ng phải khổ cực.Ruộng đất nằm cho tay địa chủ và lãnh chúa .Họ lại giao cho nông dân hoặc nông nô cày cấy để thu thuế.Lập bộ máy nhà nc đó vừa đg đầu để cai trị ,bọc lột ,đàn áp các giai cấp khác .Nhà vua và các triều đại khác ăn ở xa hoa lãng phí, ko tôn trọng ng dân như thế ko đáng để mọi ng tôn trong
Trong đêm mưa gió tầm tã, nước sông dâng lên dữ tợn như cuốn trôi tất cả, những người nông dân vẫn phải dầm mưa, khẩn trương làm các công việc hộ đê. Họ dường như đã mệt, sức người chẳng thể địch lại sức trời, tình cảnh ngày càng trở nên nguy cấp. Vậy nhưng biết kêu ai, than ai? Bởi quan phụ mẫu ở cách đó chẳng bao xa, nhưng ngài còn đang dở cuộc vui, chơi nốt ván tổ tôm với các vị quan khác. Người đứng đầu ấy chẳng mảy may lo cho dân cho nước mà còn đang bận hưởng thụ những thú vui bài bạc, ăn uống xa hoa. Tác giả đã diễn tả sự đối lập ngày càng tăng lên làm nổi bật nỗi thống khổ của người nông dân: một bên là cảnh náo loạn, gấp gáp, khẩn trương còn ở trong đình làng là thú vui, thong dong, nhàn nhã. Và khi nỗi lo của người dân đã thành sự thật, đê vỡ, họ như tuyệt vọng kêu cứu thì quan vẫn mắng và dọa sẽ bỏ tù. Nhà tù là nơi để giam giữ những kẻ hại dân nhưng ở đây là là giam giữ những kẻ cắt ngang cuộc vui của quan. Những người dân vô tội còn biết bám víu, trông cậy vào đâu. Truyện đã phê phán hiện thực xã hội phong kiến thối nát, quan lại mải mê ăn chơi sa đọa và đẩy người nông dân vào tình cảnh khốn cùng, đau thương và mất mát. Qua đó, ta thêm xót thương và cảm thông với cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân.
mình sẽ giúp bạn khi có thời gian vì bài của mình quá dài
Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc hay của Phạm Duy Tốn.
Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn. Đoạn một : từ "Gần một giờ đêm..." đến "... Khúc đê này hỏng mất" : nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn hai : từ "Ấy, lũ con dân..." đến "... Điếu mày" : cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi "đi hộ đê". Đoạn ba : phần còn lại : cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu. Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tống - những kẻ chức sắc ở địa phương - say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân "hộ đê". Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động... Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt: về thời gian, đây là lúc "gần một giờ đêm" nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà văn muốn nói rằng : cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối, tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao ! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. "Mưa tầm tã", rồi lại "trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống". Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. "Nước sông Nhị Hà lên to quá" rồi lại "nước cứ cuồn cuộn bốc lên". Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào ? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng ! "Hằng trăm nghìn con người ... kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy... người nào người nấy lướt thướt như chuột lột... Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hổi, tiếng người xao xác gọi nhau...". Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau : "tầm tã... tầm tã... cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,... bì bõm", kết hợp một hình ảnh so sánh "người nào người nấy lướt thướt như chuột lột" khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán "xem chừng núng thế lắm... không khéo thì vỡ mất... Tình cảnh trông thật là thảm ... Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay ! Nguy thay !...". Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương ! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trữ tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta. Bức tranh đời thứ hai, tương phản với cảnh nhân dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân... Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến... lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. "Đèn thắp sáng trưng ; nha lộ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại...". Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn "uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi...". Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,... Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,... Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ dạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi... chơi ! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm minh trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp dđợi chờ ván bài ù to. Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói : "Bẩm, đê có khi đê vỡ !". Tên quan gắt : "Mặc kệ !". Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin "Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi" thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng : "Đê vỡ rồi !... thời ông cách cổ chúng mày, bó tù chúng mày !". Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề "tay run cầm cập thò vào đĩa nọc..." (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói : "Ù ! Thông tôm, chi chi nảy !... Điếu, mày !". Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hướng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc... Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết : "Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !". Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyện vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm. Bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, tác giả Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ thú" trước sinh mạng của người dân và bày tỏ niềm cảm thương của mình trước cảnh "nghìn sầu muôn thảm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền đưa đến. Hai bức tranh đời tương phản, trái ngược ấy đậm đà chất hiện thực và thấm đẫm cảm hứng nhân đạo, nhân văn.
Tham khảo:
Những tiếng chim tu hú ở cuối bài thơ lại khiến cho người tù cảm thấy ngột ngạt, bực bội, khó chịu và khó chấp nhận, chìm đắm vào sự đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đày, giam cầm “chết uất thôi”. Bên ngoài tiếng tu hú vẫn không ngừng vang lên, niềm uất hận trong lòng tác giả vẫn cứ thế kéo dài
a. Phương thức biểu đạt chính: miêu tả
b. Gần một giờ đêm -> thông báo về thời gian.
c. Tương phản giữa cơn lũ to và những người dân nhỏ bé đang cố gắng ngăn nguy cơ đê vỡ.
Có thể thấy, trong văn học Việt Nam, hình tượng người lính từ lâu đã trở thành một nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn, nhà thơ. Người lính Việt Nam lên đường để bảo vệ tình yêu quê hương, Tổ quốc, bảo vệ xóm làng và những điều bình dị nhất. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã tái hiện một vẻ đẹp tâm hồn của những người lính vừa chân thực lại vừa giản dị trong tác phẩm “Tiếng gà trưa”. Đặc biệt ta cảm nhận rõ vẻ đẹp đó qua khổ cuối của bài thơ.
Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta bước vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên phạm vi cả nước. Sau khi thua tại chiến trường miền Nam, giặc Mỹ điên cuồng mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc với các loại máy bay ném bom nhằm phá hoại hậu phương lớn của tiền tuyến miền Nam. Đứng trước hoàn cảnh khốc liệt của đất nước, các thanh niên Việt Nam đã lên đường nhập ngũ, mang trong mình ý chí quyết tâm “xẻ dọc Trường Sơn” để đánh Mỹ.
Tác giả Xuân Quỳnh hay nhân vật trữ tình trong bài thơ chính là một người chiến sĩ trẻ đang tham gia nhiệm vụ đó và đang cùng đồng đội lên đường vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Tiếng gà trưa văng vẳng trên đường hành quân đã gợi cho người chiến sĩ trẻ nhớ về những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ và người bà thân thương. Chính tình cảm gia đình và quê hương đã làm sâu sắc thêm tình yêu đất nước trong con người tác giả. Trong khổ cuối bài thơ, người chiến sĩ trẻ đã gửi lời tâm sự chân thành tới người bà kính yêu nơi hậu phương:
“Cháu chiến đấu hôm nay…
Ổ trứng hồng tuổi thơ”
Điệp từ “vì” được lặp lại tới bốn lần trong khổ thơ đã nhấn mạnh rõ mục đích chiến đấu của người chiến sĩ, những mục đích của anh thật giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất cao cả và vinh quang: vì tiếng gà trưa, vì bà, vì xóm làng và hơn hết là vì Tổ quốc. Từ tình cảm bà cháu, cho tới tình yêu xóm làng và to lớn như tình yêu Tổ Quốc đều được thể hiện bằng ngôn từ giản dị, thân thương như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Tất cả được bắt nguồn từ tình cảm chân thực, giản dị chân chất và mộc mạc nơi quê hương, nó đã vun đắp tình yêu và là động lực để người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thử thách để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Tiếng gọi “Bà ơi!” vang lên như một tiếng nấc nghẹn ngào của một đứa cháu nhỏ, tiếng gọi ấy ngân dài trong nỗi nhớ bà, và nhớ quê nhà. Có thể thấy tác giả là một người rất yêu thương và kính trọng bà, chấp nhận mọi gian khổ để bảo vệ bình yêu cho bà, giữ nguyên vẹn những kỉ niệm tuổi thơ về tiếng gà cục tác. Chính tiếng gà “cục tác” đã gợi nhớ và nhắc nhở, thôi thúc cho người chiến sĩ trẻ chiến đấu bằng mọi giá để bảo vệ bình yên đất nước, thanh bình cho quê hương.
a.Mở đoạn: Cảnh hộ đê của nhân dân trong tác phẩm Sống chết mặc bay được tác giả Phạm Duy Tốn khắc họa một cách vô cùng chân thực.
b. Thân đoạn: Trước hết, với nghệ thuật liệt kê, tăng cấp, đối lập, ta cảm nhận được cảnh hộ đê của nhân dân vô cùng khổ cực.
+ Vị trí: Khúc đê thuộc làng X, phủ X hai ba đoạn đã bị thẩm lậu⇒ mối nguy cơ đe dọa tính mạng của nhân dân⇒ ra sức hộ đê.
+ Thời gian: Từ chiều đến giờ( gần 1 giờ đêm), hàng nghìn người như một đàn sâu, lũ kiến ra sức ngụp, nặn dưới bùn để ngăn chặn không cho đê vỡ. Người thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đào, kẻ cừ, người đắp…
Tiếng trống, tiếng tù và tiếng người gọi nhau xao xác sang hộ xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi.
⇒ Cảnh hộ đê: nhốn nháo, hối hả, lộn xộn⇒ mệt mỏi, đói khát, lo sợ, hốt hoảng.
Bình luận: Không đói, không mệt làm sao được khi mà từ chiều đên giờ( Khoảng thời gian rất dài, họ vật lộn với sức trời. Không lo sợ hốt hoảng sao được khi mà nước ở dưới sông hơi cứ ngùn ngụt bốc lên, mưa thì cứ tầm tã trút xuống⇒ nguy cơ vỡ đê rất cao.
-Tác giả đã khéo léo sử dụng nghệ thuật tăng tiến, đối lập giữa sức người>< Sức nước. Hỏi những kẻ làm cha, làm mẹ ở đâu. Chúng ở trong đình, mặc kệ cho con dân nheo nhóc, đói khổ.
- Chính vì thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của bọn quan lại⇒ đê vỡ.
- Nhân dân rơi vào cảnh nghìn sầu muôn thẳm, cảnh màn trời chiếu đất. Kẻ sống không chỗ ở, người chết không chỗ chôn.
Chao ôi!...
c. Kết đoạn:
Qua tác phẩm “Sống chết mặc bay” tác giả Phạm Duy Tốn đã lên án mạnh mẽ bọn quan tham ô lại, mặt người dạ thú, chỉ biết sống cho mình, vơ vét lợi ích. Nó phản ánh sự xuống cấp về đạo đức của những người cầm đầu chế độ cũ, đòi hỏi sự thay đổi của chế độ nhằm phục vụ lợi ích của người dân tốt hơn.