K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 12 2017

Tôi thấy người ta bảo rằng

Bảo răng thằng Cuội ở cung trăng

Hô mưa hắt nước trêu trần thế

Một sớm sủa sai bên chị Hằng.

Vui sao ngày đã chuyển hè

Phượng đỏ sân trường rộn tiếng ve

Chợt hiểu mùa xa nữa lại về

Xa thầy xa bạn lòng buồn nghe.

6 tháng 1 2018

Tôi thấy người ta có bảo rằng:

Bảo rằng thằng cuội ở cung trăng

Cung trăng chỉ có đất cùng đá

Hít bụi suốt ngày đã sường chăng.

14 tháng 12 2016

Chứa ai chả chứa, chứa thằng Cuội,

Tôi gớm gan cho cái chị Hằng.

25 tháng 12 2017

Hô mưa hắt nước trêu trần thế

Một sớm sửa sai bên chị Hằng.

20 tháng 12 2016

Tôi thấy người ta có bảo rằng:
Bảo rằng thằng Cuội ở cung trăng!
Chứa ai chả chứa, chứa thằng Cuội,
Tôi gớm gan cho cái chị Hằng.

Nguồn: Thơ văn Trần Tế Xương, tr. 43, NXB Văn Học, 2010 ( mình ghi nguồn để bạn biết nhé )
13 tháng 5 2019

Chua ai cha chua ,chua thang Cuoi

Toi gom gan cho cai chi Hang

4 tháng 1 2018

Cung trằng thằng cuội lên trên ở

Ở trên với chị hằng đấy nhá.

7 tháng 1 2018

Vì sao cuội lại lên trên ở

Có phải chị Hằng kéo lên chăng.

1 tháng 1 2020

Tôi thấy người ta có bảo rằng:
Bảo rằng thằng Cuội ở cung trăng!
Đêm ngày ngồi gốc cây đa đó
Xóm cũ ruộng xưa có nhớ chăng?

22 tháng 10 2019

https://thuthuat.taimienphi.vn/thuyet-minh-ve-the-tho-that-ngon-bat-cu-duong-luat-41280n.aspx

Bạn có thẻ xem mẫu tại đây nha

22 tháng 10 2019

Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điểm sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại.

Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Đường luật là luật thơ có từ đời Đường (618- 907) ở Trung Quốc. Vậy tổng thể một bài thất ngôn bát cú gồm 56 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8, hiệp vần bằng với nhau. Ví dụ như trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện một cách đặc biệt rõ ràng:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời non nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Các từ hiệp vần với nhau là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Việc này góp phần tạo nên cho bài thơ sự nhịp nhàng, bớt khô cứng của một thể thơ đòi hỏi niên luật chặt chẽ.Có phép đối giữu câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 ( tức bốn câu giữa),đối tức là sự tương phản, cả sự tương đương trong cách dùng từ, cũng có thể thấy điều này rõ ràng nhất qua bài thơ Qua Đèo Ngang:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

"Lom khom" đối với "lác đác", "dưới núi" đối với "bên sông", " nhớ nước" đối với "thương nhà".... Các phép đối rất chỉnh và rõ, kể cả về chữ và âm.Hay trong bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Phép đối giữu các câu cân xứng và rất chỉnh như "Lặn lội" đối với "eo sèo" , "quãng vắng" đối với "buổi đò đông".... Thơ Đường mà câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì gọi là "thất đối".

Bên cạnh đó thì thể thơ này cũng có luật bằng trắc rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Những câu niêm với nhau tức là những câu có cùng luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8;câu 2 niêm với câu 3; câu 4 niêm với câu 5; câu 6 niêm với câu 7. Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Về bố cục, một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: Đề, thực, luận, kết. Hai cầu đầu tiên, câu một và câu hai là hai câu mở đầu, bắt đầu gợi ra sự việc trong bài. Hai câu thực là hai câu miêu tả, cần đối với nhau về cả thanh và nghĩa. Tiếp đến là hai câu luận, tức suy luận, yêu cầu tương tự như hai câu thực. Và cuối cùng là hai câu kết, khái quát lại sự việc, không cần đối nhau. Trong suốt thời kì phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi tuyển nhân tài cho đất nước. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này cũng được Việt Nam tiếp thu và sử dụng khá phổ biến, có nhiều bài thơ khá nổi tiếng thuộc thể loại này. Đặc biệt khi Thơ mới xuất hiện, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.

https://thuthuat.taimienphi.vn/thuyet-minh-ve-the-tho-that-ngon-bat-cu-duong-luat-41280n.aspx
Thất ngôn bát cú là một thế thơ khá hay và đặc sắc, thích hợp để truyền tải những tình cảm với quê hương,đất nước đất nước. Chính những nội dung đặc sắc mà thể thơ truyền tải đã phần nào nâng cao giá trị của thể thơ này. Những bài thơ mang trong đó những tình cảm mãnh liệt của tác giả, phá vỡ đi phần nào sự chặt chẽ về quy tắc của một thể thơ cổ, có sức sống lâu dài với thời gian. Tóm lại, thất ngôn bát cú thực sự là một thể thơ tuyệt vời giúp các thi sĩ dệt lên những trang thơ hay, những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc lưu truyền mãi đến về sau.

Đọc kĩ hai bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác và Đập đá ở Côn Lôn theo định hướng sau:a. Mỗi bài thơ có mấy dòng? Mỗi dòng thơ có mấy chữ (tiếng)? Số dòng, số chữ ấy có thể thay đổi được không?b. Những tiếng nào được gọi là bằng (kí hiệu là B), tiếng nào được gọi là trắc (kí hiệu là T)? Hãy ghi kí hiệu B hoặc T cho từng tiếng trong bài thơ đó.c. Nhận xét quan hệ...
Đọc tiếp

Đọc kĩ hai bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác và Đập đá ở Côn Lôn theo định hướng sau:

a. Mỗi bài thơ có mấy dòng? Mỗi dòng thơ có mấy chữ (tiếng)? Số dòng, số chữ ấy có thể thay đổi được không?

b. Những tiếng nào được gọi là bằng (kí hiệu là B), tiếng nào được gọi là trắc (kí hiệu là T)? Hãy ghi kí hiệu B hoặc T cho từng tiếng trong bài thơ đó.

c. Nhận xét quan hệ bằng trắc giữa các dòng với nhau, biết rằng nếu dòng trên tiếng bằng ứng với dòng dưới tiếng trắc gọi là đối nhau, nếu dòng trên tiếng bằng ứng với dòng dưới cũng là tiếng bằng gọi là niêm với nhau. Dựa vào kết quả quan sát, hãy nêu mối quan hệ bằng trắc giữa các dòng.

d. Hãy cho biết mỗi bài thơ có những tiếng nào hiệp vần với nhau, nằm ở vị trí nào trong dòng thơ, đó là vần bằng hay trắc.

e. Hãy cho biết câu thơ tiếng bảy tiếng trong bài ngắt nhịp thế nào?

1
12 tháng 4 2018

a, Mỗi bài thơ có 7 tiếng, số dòng và số chữ có bắt buộc và không thể tùy tiện thêm bớt.

b, Sử dụng kí hiệu bằng trắc cho hai bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác và Đập đá ở Côn Lôn

Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu

( T-B-B-T/ - T- B- B )

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù

( T- T-B-B-T-T-B)

Đã khách không nhà trong bốn biển

( T- T- B- B- B-T-T)

Lại người có tội giữa năm châu

( T- B- T- T-T-B-B)

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế

( T- B- B- T-B- B-T)

Miệng cười tan cuộc oán thù

( T- T- B- T- T- B)

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp

( B- T- T- T/ B- T-T)

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

( B- B-B- T- T- T- B)

c, Niêm luật của bài thơ:

+ Niêm (dính nhau) tiếng dòng trên tương ứng với dòng dưới đều B

+ Đối: tiếng dòng trên B ứng với tiếng dòng dưới T

d, Những tiếng ở cuối câu luôn hiệp vần với nhau, câu 1- 2- 4- 6- 8

e, Thường ngắt nhịp chẵn lẻ: 4/3 ; 2/2/ 3

11 tháng 10 2023

quê hương ta đó

thắm thiết tình người

tình bạn gắn kết 

như  cái quần què

11 tháng 10 2023

???

 

12 tháng 10 2023

Bạn có nghe thấy 

Lời cầu cứu chăng?

Loài người nông cạn

Hủy hoại môi trường

 

Con người cứ ngỡ

Tài nguyên vô biên

Bao nhiêu tiên tiến 

Khai thác thiên nhiên

 

Nhưng đâu có ngờ

Vì sự “hững hờ”

Suy nghĩ ngu ngơ

Môi trường ô nhiễm 

 

Ai chịu trách nhiệm 

Tìm kiếm giải pháp 

Khắc phục hậu quả 

Hồi sinh trái đất 

 

Con người bội bạc 

Chặt hết cây cối

Rác thải trôi nổi 

Bốc mùi hôi thối

 

Biến đổi khí hậu

Mấy ai thấu thị

Đại dương thẳm sâu 

Chứa đầy u sầu

 

Ôi! Hỡi bạn ơi

Muốn nói đôi lời 

Môi trường tuyệt vời 

Hãy giữ muôn đời.

 

Phân loại rác thải 

Ngưng việc sai trái

Vứt rác bừa bãi

Ảnh hưởng lâu dài

 

Cùng trồng cây xanh

Hình thành rừng mới

Phủ kín đồi trọc 

Thanh lọc không khí

 

Mỗi người ý thức

Ăn sâu vào kí ức 

Cùng nhau chung sức

Gìn giữ môi trường

 

Mỗi trường quý giá

Cần sự nâng niu

Hành động nhỏ xíu

Cũng cần thực hiện

 

Vì cuộc sống “xanh”

Trí tuệ tinh anh

Nhận thức thật nhanh

“Bảo vệ môi trường”.