em rút ra bài học gì qua bài học thực tiễn và vai trò của thực tiễn
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp của người xưa. Đó là giấc mơ được tự do trong hôn nhân. Giấc mơ có cuộc sống vật chất đầy đủ, ấm no. Giấc mơ chiến thắng được bệnh tật. Giấc mơ chiến thắng được giặc ngoại xâm. Giấc mơ cái thiện chiến thắng cái ác. Niềm mơ ước lớn nhất của con người đó là: Mơ ước cái thiện thắng cái ác. Nhiều câu chuyện cổ tích thể hiện niềm mơ ước đó, tiêu biểu nhất là truyện “Thạch Sanh”. Trong truyện "Thạch Sanh" tiếng đàn là một chi tiết nghệ thuật mang nhiều ý nghĩa.
Thiện là cái tốt. Ác là cái xấu. Từ xưa, con người đã phân biệt thiện và ác như phân biệt ánh sáng và bóng tối. Thiện và ác mâu thuẫn gay gắt, như nước với lửa. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái thiện và cái ác, người bình dân mơ ước: Cái thiện sẽ thắng cái ác. Trong truyện Thạch Sanh, Thạch Sanh đại diện cho cái thiện, Lí Thông dại diện cho cái ác.
Nhân vật Thạch Sanh rất gần gũi với đời thường, chàng được sinh trong một gia đình nông dân nghèo. Thạch Sanh mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Chàng kiếm sống bằng nghề đốn củi. Trong con người bình thường của Thạch Sanh có chứa đựng những yếu tố khác thường, tác giả dân gian khẳng định chàng được Ngọc Hoàng đầu thai, vì thế mà mẹ chàng mang thai đến ba năm mới sinh được chàng. Lớn lên Thạch Sanh được các thiên thần dạy võ nghệ và phép thần thông. Là người tốt nhưng cuộc đời của chàng lại phải trải qua nhiều gian truân, thử thách. Khi gặp thử thách Thạch Sanh lại lập nên những chiến công lớn.
Thử thách thứ nhất Thạch Sanh đã vượt qua, đó là: Chàng bị Lí Thông, người hàng rượu xảo quyệt độc ác nghĩ kế kết nghĩa anh em với Thạch Sanh, rồi lừa đưa Thạch Sanh đi nộp mạng cho Chằn Tinh. Sự việc diễn ra không như suy tính của mẹ con Lí Thông, Thạch Sanh đã diệt được Chằn Tinh, trừ hại cho dân. Diệt được Chằn Tinh, chàng có được bộ cung tên bằng vàng. Mẹ con Lí Thông lại lập mưu cướp công của Thạch Sanh để được hưởng vinh hoa phú quý. Thạch Sanh quay về sống nơi gốc đa. Sau này, Thạch Sanh đã nhận ra được bản chất xấu xa của mẹ con Lí Thông nhưng chàng đã tha thứ cho họ. Điều đó khẳng định người tốt thường có tấm lòng nhân hậu và bao dung.
Thử thách lần thứ hai đối với chàng đó là Thạch Sanh đánh Đại Bàng cứu công chúa. Thạch Sanh dùng cung tên vàng làm vũ khí để bắn chim Đại Bàng cứu công chúa. Do tin người mà Thạch Sanh lại bị cướp công lần thứ hai. Sau khi cứu công chúa lên khỏi hang, Lí Thông cho người lấp cửa hang, Thạch Sanh bị nhốt lại dưới hang. Thật tàn nhẫn, bất nhân. Thật không công bằng khi một người làm mà kẻ khác được hưởng lợi. Nơi hang sâu, một lần nữa Thạch Sanh thể hiện dũng khí của mình. Chàng đã cứu được thái tử con vua Thủy Tề khỏi sự giam cầm của Đại Bàng. Thạch Sanh đúng là dũng sĩ tài năng. Chàng được vua Thủy Tề chiêu đãi và biếu tặng nhiều vàng bạc, châu báu. Chàng chỉ xin cây đàn rồi trở về gốc đa. Thạch Sanh đúng là con người thật thà, tài hoa, giàu lòng nhân ái, không tham bổng lộc.
Thử thách lần thứ ba Thạch Sanh đã vượt qua, chàng đã dùng tiếng đàn chữa bệnh cho công chúa Quỳnh Nga. Đang sống yên ổn, Thạch Sanh bị hồn Chằn Tinh, hồn Đại Bàng báo thù. Điều này làm ta liên tưởng đến cuộc sống đời thường đã từng có bao người dân lương thiện bị tai ương, bị vu oan. Chằn Tinh và Đại Bàng đã lấy trộm của cải của nhà vua đem giấu ở gốc đa rồi vu cáo cho Thạch Sanh. Người đời thường nói “Trong cái rủi lại có cái may”. Ở trong tù, Thạch Sanh mang đàn ra gảy. Công chúa đã nghe được tiếng đàn ai oán của Thạch Sanh. Tiếng đàn như tiếng nói chân chính của con người gặp oan trái đòi công lí. Phép màu nhiệm của tiếng đàn là đã khiến công chúa cười nói trở lại sau thời gian dài sống câm lặng:
“Đàn kêu: Ai chém chằn tinh
Cho mày vinh hiển dự mình quyền sang?
Đàn kêu: Ai chém xà vương
Đem nàng công chúa triều đường về đây?
Đàn kêu: Hỡi Lí Thông mày
Cớ sao phụ nghĩa lại rày vong ân?
Đàn kêu: Sao ở bất nhân
Biết ăn quả lại quên ân người trồng?”.
Tiếng đàn kì diệu còn có thêm một phép màu nhiệm, đó là: Giãi bày nỗi oan trái của Thạch Sanh. Âm thanh đó đã lọt đến tai của đức vua, người có quyền lực cao nhất trong xã hội lúc bấy giờ. Đức vua đã mang lại sự công bằng cho Thạch Sanh, người trừng trị kẻ có tội.
Trong truyện cổ tích thường có sự xuất hiện của yếu tố hoang đường kì ảo, như: Bụt có phép lạ, tấm thảm biết bay, tiếng đàn chữa được bệnh, một loài cây có thể cải tử hoàn sinh. Người bình dân gửi niềm mong ước vào các yếu tố thần kì. Vì sao ngày xưa con người không đặt niềm tin vào pháp luật, không đặt niềm tin vào những người được xem là trụ cột trong gia đình mà lại đặt niềm tin vào các thế lực siêu nhiên?
Người bình dân có thân phận thấp bé. Trong cuộc sống, chân lí luôn thuộc về kẻ mạnh. Truyện cổ tích Tấm Cám kể lại sự việc cô Tấm bị mẹ kế hãm hại. Vua biết, nhưng ông không làm gì để giúp Tấm. Trong xã hội phong kiến vua là người có quyền lực cao nhất. Vua phải mang lại sự công bằng cho dân chúng. Vua trong truyện Tấm Cám không mang được sự công bằng đến cho mọi người, không trừng trị được kẻ có tội. Ở truyện "Thạch Sanh", Lí Thông làm quan, là người có quyền hành nhưng tâm địa Lí Thông độc ác. Như vậy, vua quan có cũng như không. Trong gia đình, người mẹ, người anh được xem là trụ cột. Thế nhưng người mẹ kế, người anh cả lại đối xử không công bằng với chính những đứa con, những đứa em của mình. Thực tế cuộc sống quá nhiều bất công. Không thể đặt niềm tin vào những người thừa hành pháp luật. Không thể đặt niềm tin vào người thân. Vì vậy cho nên người bình dân đặt niềm tin của mình vào thần linh, vào các thế lực siêu nhiên. Người bình dân hi vọng thế lực siêu nhiên sẽ cứu giúp khi họ gặp khó khăn.
Nhờ cây đàn, món quà vô giá mà vua Thủy Tề ban tặng Thạch Sanh đã giãi bày được nỗi oan ức. Tiếng đàn Thạch Sanh là tiếng nói đòi công lí xã hội: “Cái thiện nhất định thắng cái ác”, “Ở hiền nhất định sẽ gặp lành.”, đó là ước mơ, là niềm tin lớn lao về sự công bằng của người dân lương thiện mỗi khi họ gặp nạn. Được kết hôn cùng công chúa, điều đó đã khẳng định đạo lí “Người làm việc nghĩa nhất định sẽ có ngày được đền ơn”. Còn Lí Thông “Gieo gió ắt sẽ gặt bão”. Được Thạch Sanh tha chết nhưng mẹ con Lí Thông về đến giữa đường bị sét đánh. Mẹ con Lí Thông chết hóa thành con bọ hung, loài côn trùng sống nơi nhơ bẩn. Đúng là trời không tha cho kẻ bất nhân. Điều này còn khẳng định thêm chân lí “Ác giả ác báo”. Con người tham lam, hèn nhác, độc ác, tàn nhẫn, xảo quyệt, bội bạc nhất định sẽ có ngày bị quả báo. Tôi tin vào công lí. Cuộc đời còn nhiều cái xấu nên con người cần phải có niềm tin. Vì có niềm tin mới giúp con người vượt qua được khó khăn.
Thạch Sanh thật thà, tốt bụng, dũng cảm, tài năng xứng đáng để nhà vua gả công chúa. Sự việc đó đã làm cho hoàng tử của các nước chư hầu tức giận. Thạch Sanh đã vượt qua thử thách này một cách kì diệu. Chàng đã chinh phục được các nước chư hầu bằng vũ khí kì lạ, đó là tiếng đàn. Dùng lời nói, dùng lí lẽ để thuyết phục kẻ thù, khiến kẻ thù từ bỏ vũ khí, đó cũng là niềm mong ước của người bình dân. Thạch Sanh đã thuyết phục được kẻ thù, bảo vệ được đất nước. Một lần nữa nhân cách Thạch Sanh tỏa sáng. Sau khi chiến thắng, chàng đã thết đãi những kẻ thua trận bằng niêu cơm kì diệu “Ăn mãi không vơi”. Sự việc đó khẳng định Thạch Sanh đúng là người giàu lòng nhân ái, là người tha thiết yêu hòa bình.
Thạch Sanh chính là biểu tượng tuyệt đẹp của con người Việt Nam trong lao động, trong chiến đấu, trong tình yêu và hạnh phúc gia đình.
Cuộc sống hiện tại, không có cây đàn thần kì, không có niêu cơm ăn mãi không hết, chỉ có tiếng nói và sức lao động của con người. Tiếng nói, sức lao động của con người mới chính là những yếu tố thần kì làm nên điều kì diệu.
Tôi có theo dõi thông tin, thiên đình đang vào hội. Ở chốn âm ti Lí Thông tự ứng cử. Lí Thông đang ráo riết vận động tranh cử để được mọi người bầu làm nghị viên đại diện cho đại biểu chốn âm ti.
Người như Lí Thông mà làm nghị viên đại diện cho chốn âm ti thì thật khổ cho những linh hồn tội lỗi.
Người sống có trách nhiệm với bản thân, sống có trách nhiệm với mọi người đó chính là những Thạch Sanh trong thời đại mới. Cuộc sống đã thay đổi nhưng con người vẫn còn mong đợi nhiều từ tiếng đàn của Thạch Sanh.
Trông trẻ trung như gái đôi mươi dù đã 40! Tất cả là vì mỗi sáng tôi...
Cách làm trắng sáng da ngay tại nhà chỉ trong chưa đầy 15 phút
Nó tốt hơn bất kỳ loại kem hay thuốc mỡ nào! Tôi điều trị bệnh khớp tại nhà!
Có đôi chân đẹp hết hẳn giãn tĩnh mạch trong 6 ngày! Vào lúc đi ngủ, hã
Bạn chán một bộ ngực nhỏ? Bạn muốn tăng chúng lên 3 cỡ trong 2 tuần? Ấn vào đây!


- Em đồng ý với ý kiến của Hà, không đồng ý với ý kiến của Hằng.
- Vì:
+ Các giờ thực hành, thí nghiệm của các môn học là một hình tức vận dụng lí thuyết vào thực tiễn.
+ Bằng thực hành, thí nghiệm, học sinh tự nhận biết được tính đúng đắn hay sai lầm của kiến thức đã học, từ đó hiểu và nghi nhớ kiến thức tốt hơn, có thể áp dụng ra ngoài thực tế cuộc sống, biến những kiến thức thu nhận được thành có ích.

- Em đồng ý với ý kiến của Hà, không đồng ý với ý kiến của Hằng.
- Vì:
+ Các giờ thực hành, thí nghiệm của các môn học là một hình tức vận dụng lí thuyết vào thực tiễn.
+ Bằng thực hành, thí nghiệm, học sinh tự nhận biết được tính đúng đắn hay sai lầm của kiến thức đã học, từ đó hiểu và nghi nhớ kiến thức tốt hơn, có thể áp dụng ra ngoài thực tế cuộc sống, biến những kiến thức thu nhận được thành có ích.

Đáp án B
Thực tế trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cho thấy chiến thắng trên mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao có mối liên hệ mật thiết:
- Chiến thắng quân sự có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi trên bàn đàm phán:
+ Chiến thắng Điện Biên Phủ buộc Mĩ phải kí Hiệp định Giơnevơ.
+ Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari.
- Chiến thắng trên mặt trận ngoại giao có ý nghĩa phản ảnh thắng lợi trên mặt trận quân sự

- Em đồng ý với ý kiến của Hà, không đồng ý với ý kiến của Hằng.
- Vì:
+ Các giờ thực hành, thí nghiệm của các môn học là một hình tức vận dụng lí thuyết vào thực tiễn.
+Bằng thực hành, thí nghiệm, học sinh tự nhận biết được tính đúng đắn hay sai lầm của kiến thức đã học, từ đó hiểu và nghi nhớ kiến thức tốt hơn, có thể áp dụng ra ngoài thực tế cuộc sống, biến những kiến thức thu nhận được thành có ích.

- Đập tan tham vọng và ý xâm lược Đại Việt của đế chế Mông Nguyên, bảo vệ được độc lập toàn vẹ lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.
- Có sự chuẩn bị chu đáo về mặt
-Thể hiện sức mạnh dân tộc đánh bại mọi kẻ thù
- Góp phần xây dựng truyền thống dân tộc đánh bại mọi kẻ thù, xây dựng học thuyết quân sự để lại nhiều bài học cho đời sau

Câu 9:
Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên trong lịch sử Việt Nam, bao gồm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), Khởi nghĩa Lý Nam Đế (542-547) và Khởi nghĩa Trần Thủ Độ (1285-1288), có những bài học quan trọng cho thực tế hiện nay.
- Đoàn kết và tinh thần yêu nước: Một điểm chung trong ba lần kháng chiến đó là sự đoàn kết mạnh mẽ của người dân và lòng yêu nước sâu sắc. Nếu muốn vượt qua những thách thức hiện nay, chúng ta cần xây dựng tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước, tự hào về quốc gia và văn hóa của chúng ta.
- Sự sáng tạo và linh hoạt: Ba lần kháng chiến đã chứng minh rằng sự sáng tạo, không ngừng tìm kiếm các phương pháp mới để chống lại kẻ xâm lược, là một yếu tố quan trọng. Chúng ta cần áp dụng sự sáng tạo và linh hoạt trong giải quyết vấn đề hiện nay, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, công nghệ và giáo dục.
- Sự kiên nhẫn và bền bỉ: Ba lần kháng chiến đã kéo dài một thời gian dài và yêu cầu sự kiên nhẫn và bền bỉ từ phía người chống lại. Trong cuộc sống hiện đại, việc đối mặt với các thách thức và khó khăn đòi hỏi sự kiên nhẫn và bền bỉ để vượt qua trở ngại và đạt được thành công.
- Khai thác lợi thế địa phương: Trong ba lần kháng chiến, người Việt đã tận dụng lợi thế địa phương, như địa hình, thời tiết, tri thức về địa phương, để ngăn chặn và đánh bại kẻ xâm lược. Chúng ta cũng cần khai thác những lợi thế địa phương, văn hóa và tài nguyên của chúng ta để phát triển và đạt được thành công bền vững.
Từ ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên, chúng ta có thể rút ra bài học về tinh thần đoàn kết, sáng tạo, kiên nhẫn và khai thác lợi thế địa phương trong việc vượt qua những thách thức hiện nay và đạt được thành công bền vững cho quốc gia của chúng ta.
Câu 10
Trần Thủ Độ đóng một vai trò quan trọng trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên của Việt Nam. Ông đã có những đóng góp lớn và sự lãnh đạo tài tình trong việc tổ chức và thực hiện cuộc kháng chiến.
Trong Khởi nghĩa Trần Thủ Độ (1285-1288), ông đóng vai trò là một nhà lãnh đạo quyết đoán. Ông đã thành lập hai hệ thống binh chủng mới, bao gồm "Binh chính" và "Binh văn", để tăng cường sức mạnh quân đội và nâng cao hiệu quả chiến đấu. Ông cũng sử dụng chiến thuật đối phó thông minh, như tận dụng các lợi thế địa hình và triển khai các mưu kế quân sự, để gây khó khăn cho quân địch ngay cả khi bị áp đảo về số lượng.
Ngoài ra, Trần Thủ Độ cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo sự đoàn kết và lấy lòng nhân dân. Ông đã thành lập các cơ quan tín ngưỡng, quy tụ các giáo sĩ và lãnh đạo tinh thần để truyền bá ý chí chiến đấu và tôn vinh lòng yêu nước. Điều này đã giúp gắn kết cả quân và dân lại với nhau, tạo nên một sức mạnh đoàn kết và quyết tâm trong cuộc kháng chiến.
Vai trò của Trần Thủ Độ không chỉ là nhà lãnh đạo quân sự mà còn là người có tầm nhìn chiến lược và khả năng tổ chức tốt. Ông đã thành công trong việc xây dựng một hệ thống quân đội mạnh mẽ và phối hợp các chiến lược chiến tranh hiệu quả, tạo nên kháng chiến toàn diện chống lại quân xâm lược Mông-Nguyên.