tóm tắt Những ngày thơ ấu ngắn gọn.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tóm tắt truyện thơ Truyện Kiều – Nguyễn Du
Thúy Kiều sinh ra trong gia đình trung lưu, có cuộc sống êm đềm bên cha mẹ và hai em là Vương Quan và Thúy Vân. Trong cuộc du xuân, Thúy Kiều gặp Kim Trọng và đem lòng yêu mến và tự ý thề nguyền, đính ước với chàng. Sau đó gia đình Kiều gặp tai vạ, Kiều phải bán mình chuộc cha, còn Kim Trọng thì về Liêu Dương chịu tang chú nên không hay tin tức của Kiều.
Kiều bị Mã Giám Sinh và Tú Bà, những kẻ buôn người xảo trá, đẩy vào lầu xanh, ép nàng phải tiếp khách. Ở đây, Kiều gặp Thúc Sinh và được chàng cứu ra, Thúc Sinh chưa kịp lấy Kiều làm vợ lẽ thì Hoạn Thư bắt Kiều về hầu hạ. Kiều trốn thoát, nhưng rồi lại rơi vào lầu xanh lần hai. Ở đây, Kiều được Từ Hải, anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất cứu thoát, giúp Kiều báo ân báo oán. Kiều vì nghe lời dụ dỗ của Hồ Tôn Hiến khiến Từ Hải chết, nàng bị Hồ Tôn Hiến ép hầu rượu và gả cho tên thổ quan. Vì đau xót, Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử và được sư Giác Duyên cứu giúp. Nhờ sư Giác Duyên, Kim Kiều hội ngộ.
Sinh ra trong một gia đình nghèo làm nghề thợ rèn tại Nhật Bản, Hon-đa sớm đã rất thích thú với công việc sửa chữa và chế tạo công cụ làm nông. Dù chưa được đi học nhưng cậu bé rất sung sướng khi được chơi đùa với máy móc và động cơ. Nhớ hồi học tiểu học cậu học kém môn thực vật và sinh nhưng lại có hứng thú với pin, cân, ống nghiệm và máy móc,… Khi nhìn thấy chiếc ô tô đầu tiên chạy về làng, cậu phấn khích chạy theo để quan sát. Năm lớp 2 cậu lén trốn học đi xem máy bay thật biểu diễn ở bãi huấn luyện. Sau đó cậu bắt chước những trang bị của phi công đội mũ quay ngược vành, gắn quạt gió bằng tre lên xe đạp chạy vòng quanh,… Qua đây có thể thấy: Tuổi thiếu niên là thời gian chuẩn bị quan trọng cho giai đoạn trưởng thành của đời người sau này.
Lần một: Bị mẹ con Lí Thông lừa đi canh miếu thờ, thế mạng, diệt trăn tinh
Lần hai: Xuống hang diệt đại bàng cứu công chúa, bị Lí Thông lấp cửa hang.
Lần ba: Bị hồn trăn tinh và đại bàng báo thù, bị bắt hạ ngục.
Lần bốn: Sau khi kết hôn với công chúa, phải đối phó với quân của mười tám nước chư hầu hội binh kéo sang đánh.
Và quả thực, qua những thử thách, Thạch Sanh đã bộc lộ được những phẩm chất hết sức quý báu. Chàng vẫn giữ nguyên được sự thật thà, chất phát, nhân hậu vốn có, bộc lộ được tài năng và tôi luyện thêm sự dũng cảm, lòng yêu chuộng hoà bình.
Đáp án
Tóm tắt
Bố mẹ Thành Thủy chia tay nhau nên hai anh em mỗi người một ngả: Thủy theo mẹ về quê, còn Thành ở lại với bố. Hai anh em nhường đồ chơi cho nhau, Thủy đau đớn chia tay thầy cô, khi chia tay còn quyến luyến không muốn rời. Thành cảm thấy cô đơn, đau đớn trong cảnh ngộ của mình.
+ Lai hai dòng ruồi giấm thuần chủng: thân xám, cánh dài × thân đen, cánh cụt
+ F1: 100% thân xám, cánh dài
+ Lai phân tích: đực F1 × cái đen, cụt
→ Thu được các thế hệ sau tỷ lệ là 1 thân xám, cánh dài : 1 thân đen, cánh cụt
- Dựa vào tỉ lệ kiểu hình 1 : 1, Moocgan cho rằng các gen qui định màu sắc thân và dạng cánh cùng nằm trên một NST (liên kết gen).
Moocgan chọn ruồi giấm làm đối tượng nghiên cứu di truyền (năm 1910) vì nó dễ nuôi trong ống nghiệm, đẻ nhiều, vòng đời ngắn (10 - 14 ngày đã cho một thế hệ), có nhiều biến dị dề quan sát, số lượng NST ít (2n = 8).Ở ruổi giấm, gọi : gen B quy định thân xám. gen b quy định thân đen : gen V quy định cánh dài, gen V quy định cánh cụt. Moocgan lai hai dòng ruồi giấm thuần chủng thân xám. cánh dài và thân đen, cánh cụt được F1 toàn ruồi thân xám, cánh dài. Sau đó, ông thực hiện phép lai giữa ruồi đực F1 với ruồi cái thân đen, cánh cụt thu được ở thê hệ sau có tỉ lệ là 1 thân xám, cánh dài : 1 thân đen, cánh cụt. Kết quà phép lai này đã được giải thích bằng sơ đồ lai ở hình 13.
Như vậy, thân xám và cánh dài cũng như thân đen và cánh cụt luôn luôn di truyền đồng thời với nhau được giải thích bằng sự di truyền liên kết gen. Các gen quy định nhóm tính trạng này nằm trên một NST cùng phân li về giao tử và cùng được tổ hợp qua quá trình thụ tinh.
" Những ngày thơ ấu" là cuốn hồi kí của Nguyên Hồng. Tác phẩm chưa đầy một trăm trang, khoảng trên 2 vạn chữ, chia thành 9 chương. Trang hồi kí đã ghi lại cảnh sa sút, tan nát của một gia đình thị dân ở thành phố Nam Định trong khoảng những năm hai mươi, ba mươi của thế kỉ XX. Những nỗi đau buồn của một thiếu phụ trong một cuộc hôn nhân miễn cưỡng, một người chồng, một người cha nghiện ngập, những tủi cực, cô đơn và con đường lêu lổng của một em bé mồ côi, rồi sa ngã dần. Câu chuyện cảm động được tóm tắt như sau :
Bà nội của bé Hồng đi đạo, sinh nở 18 lần nhưng chỉ nuôi sống được 3 người con : một trai, hai gái. Bố của bé Hồng là con thứ hai. Bố của Hồng làm cai ngục. Khi bé Hồng sinh ra, có biết bao nhiêu người nhà của phạm nhân mang nhiều vàng bạc, lụa là, gạo thơm, gà béo, trứng mới, cá biển tươi để mừng. Vú bõ thì hả hê vì có số tốt được hầu hạ một cửa " quyền quý". Sau này, mỗi lần bà nội nhắc lại chuyện ấy "có nhiều sự cảm động lắm". Mẹ Hồng là một phụ nữ xinh đẹp, chỉ bằng một nửa tuổi của bố em. Năm Hồng lên bảy, lên tám đã hiểu biết rõ rệt và thấm thía " sự trái ngược cay đắng" trong tình duyên của bố mẹ. Em vẫn nghe người ta bàn tán về chuyện em Quế là con của cai H. Cứ chiều chiều, khi tiếng kèn "rộn rã, tưng bừng" của toán lính khố xanh đi qua nhà, đôi mắt mẹ Hồng lại "sáng lên", gò má "ửng hồng", dắt đứa con trai bé nhỏ ra sân đón đợi " một người tầm thước, gương mặt trắng hồng, mắt sáng, sống mũi hơi cao, hai hàm răng trắng phau"....Mấy năm sau, người cai kèn đổi đi nhà ngục khác, người thiếu phụ ấy " càng bâng khuâng trong đôi mắt thẫn thờ"...Và cũng từ đấy, bố mẹ Hồng " không bao giờ nhìn thẳng vào mặt nhau".. Trong con mắt, giọng nói " bao giờ cũng đượm vẻ trầm lặng, chua chát, hờn tủi".
Gia đình sa sút rồi suy sụp hẳn. Bố xin thôi nghề cai ngục, lôi bàn đèn thuốc phiện về nhà, sống âm thầm trong buồng tối. Nhiều tài sản quý giá đều bán sạch. Mẹ buôn bán thua lỗ. Năm 1927, ngôi nhà gạch 2 tầng ở phố Hàng Cau, thành phố Nam Định phải bán đi để trả nợ. Bố trụy lạc, con lang thang lêu lổng đánh đáo để có tiền ăn quà, giao du với những trẻ bụi đời cùng khổ.
Rằm tháng tám trung thu năm sau, khi bà con hàng phố " hoan hỉ trước bàn cỗ trông trăng" thì bé Hồng và em Quế trông bộ quần sô sẩu, đi theo sau chiếc quan tài, cất tiếng khóc não ruột : " Cậu ơi, hư hư cậu ơi là cậu ơi!".
Bố chết chưa đoạn tang, mẹ lần hồi ngược xuôi, lúc lên Hà Nội, lúc vào Vinh, lúc xuống Hải Phong, để vay mượn làm vốn buôn bán. Rồi mẹ chửa đẻ với người khác, tha phương cầu thực vào tận Thanh Hóa. Hồng và em Quế phải ăn chực nằm chờ ở nhà bà cô giàu có, bị bêu riếu khinh miệt, thậm chí có bần bé Hồng đã bị cô C " vác củi tạ phang....lết chân đi không được nữa". Nhiều đêm, nhiều tháng, Hồng chỉ còn biết sống với những giấc mơ " mong manh, kì thú" của tuổi thơ.
Đêm Nô-en, với bộ quần áo chúc bâu mỏng và chiếc áo chùng thâm đã toạc vai, trong làn gió lạnh, bé Hồng cũng đến nhà thơ, em cố lách đám đông để có thể nhìn thấy bàn thờ Chúa, nhưng đã bị người ta đẩy xuống hoặc cốc lỗ đầu. Em phải tra khỏi nhà thơ, lủi thủi một mình giữa đêm khuya lạnh lẽo. Rồi những đêm đông mưa phùn, gió vi vu lạnh buốt, nằm trên cái phản trong xó nhà tăm tối của cô C. Nơi Bến Gỗ, đắp cái chăn đơn mỏng ngoài chùm chiếu, bé Hồng co rúm lại, ngực đau nhói lên, trằn trọc thao thức từ gà gáy cho đến sáng. Nước mắt cứ ứa ra...
Bé Hồng sống trong cô đơn, không người chăm sóc, tâm trí lơ đáng trong giờ học. Một đồng xu cái trong túi, suốt ngày lang thang khắp các cổng chợ, vườn hoa, bến tàu,.... để đánh đáo. Chẳng bao lâu sau, cậu được bạn học và lũ trẻ bụi đời đặt cho cái biệt hiệu "Bật câu cơm", một danh hiệu mỉa mai mà Hồng không hề hổ thẹn. Càng ngày càng xa ngã. Nhiều đêm bỏ nhà đi lang thang. Một mùa hè tủi cực đã đến : bị thày giáo đánh đập, bắt quỳ vào góc bảng hết buổi học này qua buổi học khác. Oan uổng và đau khổ. Phải bỏ học trước nhục hình cay đắng. Mùa hè năm ấy, bé Hồng 13 tuổi, phải bỏ học " khi bàn tay của thầy giáo đã dúi tôi vào góc tường hình phạt và không bao giờ nhấc cho tôi lên nữa. Tôi vùng đứng dậy, mê man chạy như biến ra đường" khi tiếng trống lần thứ hai bỗng nổi dậy...
Những ngày thơ ấu là tập hổi kí kể về tuổi thơ cay đắng của tác giả. Nhân vật chính trong câu chuyện là Hồng. Chú bé Hống ra đời là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng không tình yêu; Hồng lớn lên trong không khí giả dối, lạnh lẽo của một gia đình không hạnh phúc. Bố sống lặng lẽ, u uất với bàn đèn thuốc phiện. Người mẹ trẻ trung có trái tim khao khát yêu thương, song đành chôn tuổi thanh xuân bên người chồng nghiện ngập. Gia đình ngày càng sa sút rồi sụp đổ hẳn. Bố chết, người mẹ vì cùng túng quá phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực; bỏ lại đứa trẻ sống bơ vơ giữa sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của họ hàng. Ngoài ra tác phẩm còn thể hiện tình yêu thương cháy bỏng của nhà văn thời thơ ấu đối với người mẹ bất hạnh.