Nhận xét cách sắp xếp trật tự từ sau:
a. - Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
(Huyện Thanh Quan-Qua Đèo Ngang
b. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.
(Thép Mới, Cây tre Việt Nam)
c. Lịch sử ta đã có...
Đọc tiếp
Nhận xét cách sắp xếp trật tự từ sau:
a. - Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
(Huyện Thanh Quan-Qua Đèo Ngang
b. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.
(Thép Mới, Cây tre Việt Nam)
c. Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.
d. Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi! (1)
Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát (2)
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.
(Tố Hữu, Ta đi tới)
e. Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo
a. Đây là 2 câu thơ nằm trong phần thực của bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
- Xét về cấu trúc câu thơ khá đặc biệt: ngược lại trật tự cú pháp thông thường. Lối đảo ngữ có tác dụng làm cho bộ phận vị ngữ được nhấn mạnh, gây ấn tượng sâu sắc, cảnh vật được nhìn thấy từ xa, từ cao nhìn xuống trong 1 không gian rộng.
- Về từ láy "lom khom", "lác đác" gợi một ấn tượng bao trùm đó sự nhỏ bé và sự phân bố thưa thớt, .Thế giới con người được nữ sĩ phác họa làm nổi bật sự hoang vắng của cảnh Đèo Ngang trong thế kỉ XIX vào buổi chiều tà.
- Sử dụng phép đối : đối lời, đối ý, đối thanh. Câu thơ vừa có hình tượng, vừa có âm điệu trầm bổng....
b. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong " Truyện Kiều của Nguyễn Du".
- Mùa hè đã đến. Chim cuốc khắc khoải kêu suốt ngày, đêm. Chim quyên ( hay còn gọi là chim cuốc ) được nhân hóa "quyên gọi hè"; bước đi của thời gian như thêm phần thôi thúc giục giã.
- Câu thơ không chỉ mang âm thanh mà còn có cả sắc. Hình ảnh rất đẹp, rất độc đáo:
" Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông"
- "Lửa lựu" - hình ảnh ẩn dụ thần tình. Khóm lựu đầu tường đã trổ hoa rực rỡ như ngọn lửa. "Lập lòe" là hiện tượng nói về ánh sáng khi lóe ra, khi tắt đi. Trong màu xanh thẫm của lá, hoa lựu lập lòe khoe sắc.
- Từ láy " lập lòe" đi liền sau "lửa lựu", tạo nên hình tượng "lửa lựu lập lòe" đầy thú vị. Bốn phụ âm thứ 1 liên kết trong một mạch thơ tạo nên sự phong phú, vần điệu.
- Đại thi hào Nguyễn "lựu nở hoa" mà viết " đơm bông". Cách dùng từ rất tinh tế, đậm đà bản sắc dân tộc. Cũng như chim quyên, hoa lựu là tín hiệu, là biểu tượng của mùa hè ở đồng quê Việt Nam.
- Biện pháp nhân hóa: quyên đã gọi hè
-> âm thanh của chim cuốc khắc khoải gọi hè báo hiệu bước đi của thời gian.
- Biện pháp ẩn dụ: Lửa lựu
-> hoa lựu nở đỏ trông như những đốm lửa
Chơi chữ: điệp phụ âm “l” (lửa lựu lập lòe) kết hợp với cách sử dụng từ láy tượng hình “lập lòe”
-> gợi tả chính xác màu sắc, trạng thái lấp ló, lúc ẩn lúc hiện của bông hoa lựu đỏ trong tán lá dưới ánh trăng
-> Sự quan sát tinh tế, khả năng sử dụng ngôn ngữ và tài năng tả cảnh bậc thầy của ngòi bút Nguyễn Du đã lột tả được cái hồn của cảnh
-> Tất cả làm hiện lên một bức tranh mùa hè đẹp, sinh động nơi làng quê yên ả, thanh bình