em hãy giới thiệu cho bạn về hành trình vòng quanh thế giới bằng đường biển của Ph.Ma-gien-lan qua hình 14
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Vào ngày này năm 1519, nhà thám hiểm hàng hải người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan đã căng buồm ra khơi từ Tây Ban Nha trong một nỗ lực nhằm tìm kiếm tuyến đường biển phía Tây dẫn tới Quần đảo Gia vị (Spice Islands, tên tiếng Anh theo cách gọi “Hương liệu Quần đảo” của người Trung Hoa, nay là Quần đảo Maluku) trù phú của Indonesia.
Chỉ huy năm con tàu cùng hải đoàn gồm 270 thủy thủ, Magellan căng buồm tới Tây Phi và sau đó tới Brazil, nơi ông đi dọc theo bờ biển Nam Mỹ để tìm một eo biển dẫn tới Thái Bình Dương. Ông đã tới Río de la Plata, một cửa sông lớn nằm ở miền Nam Brazil để tìm lối đi nhưng thất bại; sau đó ông tiếp tục tìm dọc theo bờ biển vùng Patagonia.
Đến cuối tháng 3 năm 1520, đoàn thám hiểm thành lập một trạm nghỉ đông ở Cảng Saint Julian (ngày nay là Puerto San Julián). Đêm lễ Phục sinh, các thuyền trưởng người Tây Ban Nha trong hải đoàn đã nổi dậy chống lại chỉ huy người Bồ Đào Nha, nhưng Magellan đã dập tắt được cuộc nổi loạn, hành quyết một trong số những thuyền trưởng đó và để lại một người khi hải đoàn rời Saint Julian để tiếp tục cuộc hành trình vào tháng 8.
Ngày 21 tháng 10, cuối cùng Magellan cũng tìm được eo biển ông vẫn hằng tìm kiếm. Eo biển Magellen, được đặt theo tên ông, nằm gần mũi Nam Mỹ, phân tách Tierra del Fuego (Quần đảo Đất Lửa) với phần lục địa. Chỉ có ba con tàu tiếp tục hành trình; một đã bị đắm và một bị bỏ lại. Mất 38 ngày mới qua được eo biển đầy bất trắc, và Magellan đã bật khóc vì vui sướng khi nhìn thấy bờ bên kia đại dương. Ông là nhà thám hiểu người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Thái Bình Dương từ Đại Tây Dương.
Hải đoàn của ông vượt qua đại dương về phía Tây trong 99 ngày, một vùng nước yên bình đến lạ thường, bởi vậy mà đại dương này được gọi là “Pacific” (Thái Bình Dương), xuất phát từ chữ Latinh pacificus, có nghĩa là “yên tĩnh.” Gần cuối hành trình, hải đoàn đã cạn kiệt thức ăn và phải nhai da thuộc để giữ mạng sống. Ngày 6 tháng 3 năm 1521, đoàn thám hiểm đổ bộ lên đảo Guam.
Mười ngày sau đó, họ thả neo xuống đảo Cebú của Philippines—chỉ cách Quần đảo Gia vị gần 650 cây số. Magellan đã gặp tù trưởng Cebú, người sau khi cải đạo sang Thiên Chúa giáo đã thuyết phục những người châu Âu giúp đỡ ông trong trận chinh phạt một bộ lạc đối thủ trên đảo Mactan gần đó. Trong trận chiến diễn ra ngày 27 tháng 4, Magellan trúng một mũi tên tẩm độc và hy sinh trong khi những người đồng đội của ông rút lui.
Sau cái chết của Magellan, những người sống sót còn lại, trên hai con tàu, căng buồm tới Maluku và chất đầy hương liệu thu được ở đây. Một con tàu đã cố gắng trở về theo con đường Thái Bình Dương, nhưng thất bại. Con tàu còn lại, Vittoria, tiếp tục đi về phía Tây dưới sự chỉ huy của nhà thám hiểm Juan Sebastián de Elcano người xứ Basque. Con tàu đi qua Ấn Độ Dương, men theo Mũi Hảo Vọng, và cập bến cảng Sanlúcar của Tây Ban Nha vào ngày mùng 6 tháng 9 năm 1522, trở thành con tàu đầu tiên đi vòng quanh thế giới.
Năm 1487, Đi -a - xơ đi qua vòng cực Nam châu Phi
Năm 1498, Va - xcô Đơ ga - ma đi đến Ấn Độ
Năm 1492, Cô - lôm - bô tìm ra Châu Mỹ
Năm 1519 - 1522, Ma - gien - lan vòng quanh trái đất.
Mình chì làm được câu 1 thôi bạn ạ. Nhớ tick mk nhé !!!
Câu 1 ) Năm 1487 Đi-a-xơ đã đi vòng qua cực nam châu phi
Năm 1498 Va-xcô đơ Ga-ma là ngừơi đi qua đây và cập bến Ca-li-cút ở phía tây nam Ấn Độ
Năm 1492 Cô-lôm-bô là ngừơi đã tìm ra châu mĩ
Năm 1519 - 1522 Ph.Ma-gien-lan là ngừơi đầu tiên đi Vòng qua trái đất
Ph.Ma-gien-la bắt đầu cuộc hành trình ở cảng Li-xon ,Bồ Đào Nha.Sau đó,ông đi qua điểm cực nam Nam Mỹ.Ông tiếp tục vượt Thái Bình Dương và đến Phi-líp-pin .Ông vượt qua Ấn Độ Dương đến điểm cực nam Châu Phi và trở lại Bồ Đào Nha sau 3 năm.
Ferdinand Magellan, Người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường biển
Ngay từ những bài học đầu tiên về địa lý thế giới, chúng ta đã được dạy và biết rằng Ferdinand Magellan là người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường biển. Tuy nhiên có nhiều chi tiết về con người, cuộc đời và sự nghiệp của ông mà không phải là ai cũng biết. Bài viết này muốn cung cấp thêm cho bạn đọc một số thông tin như vậy.
Ferdinand Magellan sinh năm 1480 tại vùng Sabrosa, một mảnh đất nằm ở phía Bắc Vương quốc Bồ Đào nha, mất ngày 27 tháng 4 năm 1521 tại Mactan Cebu, Philippines. (Cũng có tài liệu nói rằng ông sinh ra tại vùng Vila Nova de Gaia, gần Porto, thuộc tỉnh Douro Litoral của Bồ Đào Nha).
H1- Ông Ferdinand Magellan
H2- Chữ ký của F. Magellan
Cha của F. Maggelan là Rodrigo de Magalhães và mẹ là Alda de Mesquita. Khi cả cha và mẹ đều mất ở tuổi lên 10, F. Magellan đã trở thành người hầu của Hoàng Hậu Leonor thuộc Hoàng gia Bồ Đào Nha. Là người Bồ Đào Nha, nhưng tên tuổi ông, gắn với danh hiệu Người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường biển lại là khi ông phục vụ cho nhà Vua Charles I của Tây Ban Nha trong nỗ lực tìm kiếm con đường biển đi về hướng Tây để đến được “Những hòn đảo gia vị” (Spices Islands) hay trong các sách lịch sử và địa lý trước đây thường gọi là “Vùng đất hồi, quế – chính là các đảo Maluku ở Indonesia ngày nay.
Chuyến đi của Magellan (1519-1522) với tư cách là người chỉ huy đoàn tàu của Tây Ban Nha là chuyến thám hiểm đầu tiên từ Đại Tây Dương đi vào Thái Bình Dương (được Magellan gọi là “Biển bình yên – Peaceful sea” ), qua eo biển Magellan (eo biển sau này được mang tên ông) và cũng là chuyến đi đầu tiên vượt Thái Bình Dương, đồng thời là chuyến đi đầu tiên vòng quanh thế giới, dù rằng bản thân Magellan không hoàn thành được toàn bộ hành trình, do bị giết chết trong trận phục kích của thổ dân tại Mactan, Philippines.
Ta hãy cùng điểm lại những nét chính nhất trong cuộc đời và sự nghiệp của Ferdinand Magellan.
Tháng 3 năm 1505, ở tuổi 25, F.Maggelan đăng ký phục vụ trên một hạm đội gồm 22 chiến thuyền của Bồ Đào Nha theo Đô đốc Francisco de Malmeda khi vị Đô đốc này được cử làm Tổng trấn, Phó vương đầu tiên của Ấn Độ thuộc Bồ. Ông phục vụ trong hạm đội này trong 8 năm và đã tham gia một số trận đánh, và bị thương trong trận Cannamore năm 1506. Vào năm 1509, F. Magellan tham gia trong đoàn chiến thuyền của Diogo Lopes de Sequira đánh chiếm vùng đất Malaca, Malaysia. Tháng 9 năm đó, đoàn chiến thuyền của Bồ Đào Nha bị phục kích và buộc phải rút lui. Trong chiến dịch đó, F. Magellan đóng một vai trò quan trọng, cảnh báo và cứu thoát được Francisco Serrao, là một thuyền trưởng trong hạm đội đó, đồng thời cũng là anh em họ của mình và vì vậy ông được vinh danh và thăng cấp.
Tuy vậy, sự nghiệp của F. Magellan không được thuận buồm xuôi gió ở đất Bồ Đào Nha. Sau một lần tự ý rời tàu mà không được phép, F. Magellan không còn được sủng ái nữa. Tiếp đó trong một trận dánh ở Morocco, ông bị thương ở chân và trở thành phế tật vĩnh viễn. Cũng trong thời gian này, có kẻ tâu với triều đình rằng F. Magellan có những hoạt động buôn bán bất hợp pháp với người Moors. Dù rằng sau đó, những lời tố cáo này được chứng minh là không có cơ sở, tuy nhiên từ tháng 5 năm 1514 ông vẫn không được tin dùng trở lại. Dù rằng đã từng ở cương vị chỉ huy một chiến thuyền, nhưng vào năm 1515, F. Magellan chỉ được đề nghị giữ một chân thủy thủ bình thường trên một chiến thuyền của Bồ Đào Nha và vì lòng tự trọng, ông đã từ chối “lời đề nghị khiếm nhã”này. Năm 1517, ông đã có thái độ bất kính đối với nhà Vua Manuel I của Bồ Đào Nha do liên tục bị khước từ đề xuất của mình về chuyện được dẫn dắt một đoàn thám hiểm tìm đường đến những “Hòn đảo gia vị” nằm ở Phương Đông bằng cách đi về phía Tây. Vì lý do đó, cũng như thấy rằng không thể thực hiện được những ước mơ của mình ở Bồ Đào Nha, ông tìm đến Tây Ban Nha, một quốc gia láng giềng, nhưng cũng là đối thủ cạnh tranh của Bồ Đào Nha trong những cuộc viễn chinh tìm đường đến các thuộc địa, các thị trường mới. Tại Seville Tây Ban Nha, ông đã kết bạn và rồi trở thành con rể của Diogo Barbosa, người có nhiều ảnh hưởng đến việc gây dựng nên tên tuổi của F. Magellan với danh hiệu “Người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường biển” sau này.
Trong thời gian bị thất sủng, cùng với Rui Faleiro, một nhà thiên văn học, F. Magellan dành toàn bộ thời gian, tiền bạc vào nghiên cứu những hải đồ mới nhất,. Hai người tìm kiếm con đường từ Đại Tây Dương sang Nam Thái Bình Dương cũng như khả năng để biến Moluccas thực sự trở thành vùng đất thuộc địa của Tây Ban Nha, theo như phân định của Hiệp ước Tordesillas.
Tháng 10 năm 1517, F. Magellan đã gặp Juan de Aranda ở Seville, Tây Ban Nha. J. Aranda đã hỗ trợ cho F. Magellan và người đối tác của ông là Rui Faleiro đệ trình bản kế hoạch của mình lên nhà vua Tây Ban Nha Charles I. Nhận thấy đề xuất của F. Magellan cực kỳ hấp dẫn khi mở ra hy vọng tìm được “con đường gia vị - con đường hồi, quế” mà không gây phương hại đến mối quan hệ với người láng giềng Bồ Đào Nha. Ý tưởng đưa ra thật hợp thời, khi từ lâu, nhà Vua Tây Ban Nha vẫn nung nấu ý định tìm con đường về phương Đông, mở ra những cơ hội buôn bán, phát triển và trước hết là chiếm cứ thuộc địa. Ngày 22 tháng 3 năm 1518, Nhà Vua Tây Ban Nha Charles I, đã phong cho F. Magellan và R. Faleiro là những “Thuyền trưởng” chỉ huy chiến dịch mở “con đường gia vị”. Để khuyến khích F. Magellan và cộng sự của ông, Nhà Vua Tây Ban Nha đã thỏa thuận cho họ được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi như được độc quyền sử dụng con đường mà họ tìm ra trong 10 năm; được phong làm Thống đốc những vùng đất, hòn đảo mà họ phát hiện ra, được hưởng 1/5 số của cải thu được từ chuyến đi và nhiều quyền lợi khác nữa khi tìm ra được con đường này.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 1519, đoàn tàu 5 chiếc gồm Trinidad, San Antonio, Concepción, Victoria và Santiago dưới sự chỉ huy của F. Magellan rời cảng Seville, xuôi theo dòng sông Guadalquivir về Sanlucar de Barrameda một điểm tập kết nằm ở cửa sông. Họ dừng lại đây để củng cố tầu, trang thiết bị, cấp thêm thực phẩm và nước ngọt để rồi ngày 20 tháng 9 năm đó chính thức khởi hành rời Tây ban Nha. Ngoài khoản kinh phí của nhà Vua Tây ban Nha cấp cho việc đóng 5 con tàu này cùng lương thực, thực phẩm đủ dùng cho 2 năm, đoàn thám hiểm còn có các nguồn tài trợ khác. Một trong những nhà tài trợ quan trọng nhất là Christopher de Haro, một thương nhân Tây Ban Nha, người cũng tin vào việc có thể tìm ra được đường đi đến Đông bán cầu bằng cách đi về phía Tây và cùng với đó là mở ra cơ hội làm ăn buôn bán mới. Ông này đóng góp ¼ kinh phí cho chuyến đi cùng toàn bộ số hàng hóa chất trên các tàu để các thủy thủ trên tàu có thể mang ra đổi hàng tại các địa phương tàu đến. Magellan trực tiếp chỉ huy con tàu Trinidad là tàu dẫn đường, trọng tải 110 tấn, thủy thủ đoàn 55 người. Các con tàu khác bao gồm tàu San Antonio – 120 tấn, 60 thủy thủ, do Juan de Cartagena làm thuyền trưởng; tàu Conception – 90 tấn, 45 thủy thủ, do Gaspar de Quesada làm thuyền trưởng; tàu Santiago – 75 tấn, 32 thủy thủ do Juan Serrano làm thuyền trưởng và tàu Victoria – 85 tấn, 43 thủy thủ do Luis Mendoza là thuyền trưởng. Một điểm thú vị là con tàu Victoria này được lấy tên của nhà thờ Saint Maria ở vùng Victoria de Triana, tại đây, chính Magellan đã làm lễ đọc lời thế trung thành với nhà vua Charles V của Tây Ban nha, trước chuyến đi.
Một điều đặc biệt khác nữa của đoàn tàu này là thủy thủ đoàn, 270 người, toàn những người có nhiều kinh nghiệm đi biển, được mệnh danh là những “sói biển” đến từ nhiều nước khác nhau, bao gồm các quốc tịch Bồ Đào nha, Tây Ban Nha, Italia, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Anh và Pháp. Lúc đầu, số thủy thủ người Bồ Đào Nha có nhiều hơn, tuy nhiên do nhiều người trong triều đình Tây Ban Nha lo ngại rằng những người cùng quốc tịch với Magellan đó có thể cùng ông phản lại lợi ích của Tây Ban Nha nên họ cố gắng cản trở chuyến đi, rồi thay thế bằng những thủy thủ người Tây Ban Nha, nên cuối cùng cũng chỉ còn 40 người Bồ Đào Nha trên các tàu. Mặc dù vậy, trong số những người Bồ Đào Nha còn lại trên tàu, Magellan đã cố gắng giữ được những nhân vật quan trọng như người em vợ của mình là Duarte Barbosa, rồi Joao Serrao- một người bà con của thuyền trưởng Francis Serrao, người đã được Magellan cứu sống trong một trân đánh trước đây, cũng như Enrique de Malacca, một người khác đã được Magellan cứu trong trận người Bồ Đào Nha bị phục kích và phải tháo chạy ở Malacca, Malaysia năm xưa, nay trở thành người hầu thân cận và là phiên dịch tiếng Malay của Magellan. Tuy nhiên cũng có những nhân vật đã từng tham gia với Magellan ngay từ ban đầu để chuẩn bị cho chuyến đi này như nhà thiên văn học Rui Faleiro thì cho đến phút cuối cùng lại tỏ ra nghi ngờ thành công của chuyến đi và rút khỏi danh sách thủy thủ đoàn. Ngược lại cũng có những người khác như một thuyền trưởng tàu buôn người Tây Ban Nha tên là Juan Sebastien Elcano, chỉ đến khi đoàn tàu đang tập kết ở cảng Seville, quê hương ông, thì ông mới xin với nhà Vua Tây Ban Nha cho được tham gia đoàn và chính ông này là người sau này đã chỉ huy con tàu duy nhất trong đoàn tàu 5 chiếc, quay về được Tây Ban Nha hoàn thành chuyến đi vòng quanh trái đất và được chính thức vinh danh về việc đó. Tham gia đoàn còn có một học giả người vùng Venice, tên là Antonio Pigafetta. Ông vốn là con người rất uyên thâm, đáng kính, nhưng vì thích phiêu lưu, mạo hiểm nên đề nghị được tham gia đoàn và chấp nhận một chức danh rất khiêm tốn là “Thư ký”. Chính nhờ những ghi chép đầy đủ và chính xác của ông cùng với những trang nhật ký tàu do Francis Albo lập mà ngày nay chúng ta có được những tư liệu để biết được về chuyến đi lịch sử này của Magellan và đoàn thám hiểm của ông.
Ngay từ những ngày đầu của hành trình, Magellan và đoàn tàu của ông đã phải đối mặt với những khó khăn và nguy hiểm. Trước hết là chuyện nhà Vua Bồ Đào Nha Manuel I đã lệnh cho một hạm đội đuổi theo và ngăn cản chuyến đi này. Tuy nhiên Magellan với kinh nghiệm đi biển của mình đã tránh được sự theo đuổi đó. Sau khi dừng tránh bão ở đảo Canary, đoàn tàu của Megellan đến Cape Verde và từ đó lần theo hướng Tây sang Cape St. Augustine ở Brazil. Vào ngày 27 tháng 11 năm đó, đoàn thám hiểm đã vượt qua xích đạo và 10 ngày sau họ đã thấy thấp thóang vùng đất Nam Mỹ. Do bởi Brasil là thuộc địa của Bồ Đào Nha, nên để tránh đụng độ, Magellan quyết định tránh miền đất này, không lên bờ. Tuy nhiên họ vẫn phải neo đậu tại một địa điểm mà ngày nay gần ở Rio de Janeirro để cấp thêm lương thực. Một lần nữa, thời tiết xấu lại làm trì hoãn chuyến đi. Sau nhiều ngày chờ đợi, đoàn thám hiểm đi dọc xuống phía nam theo bờ Đông của lục địa Nam Mỹ, lần tìm eo biển mà Magellan cho rằng có thể nối đến con đường dẫn đến những Hòn đảo gia vị. Vào ngày 10 tháng 1 năm 1520, họ đến Rio de la Platta thuộc Argentina.
Vào ngày 30 tháng 3 năm 1520, thủy thủ của đoàn thám hiểm đã lập một khu định cư tại một vùng đất thuộc Argentina mà họ gọi là Puerto Julian. Chỉ vài ngày sau đó, một cuộc nổi loạn đã nổ ra, cầm đầu là 2 trong số 5 thuyền trưởng của đoàn tàu, chủ yếu nhằm giành quyền chỉ huy đối với F. Magellan và từ đó là những quyền lợi gắn liền với vị trí đó. Tuy nhiên cuộc nổi loan này đã nhanh chóng bị dập tắt, do đa số thủy thủ vẫn trung thành với F. Magellan. Theo những ghi chép của Antonio Pigafetta thì Juan Sebastien Elcano là một trong những người được tha thứ trong khi Gaspar Quesada, thuyền trưởng của tàu Conception đã bị xử tử tại chỗ còn Juan de Cartagena, thuyền trưởng của tàu San Antonio và một tu sĩ tên là Padre Sanchez de la Reina thì bị bỏ lại trên hoang đảo. Cũng có tài liệu viết rằng những kẻ nổi loạn bị phân thây làm tư, vứt trên bãi biển và nhiều năm sau thuyền trưởng Francis Drake còn tìm thấy xương cốt của họ. Đóng góp quan trọng trong việc dẹp nổi loạn, cùng với năng lực chỉ huy và kinh nghiệm đi biển của mình, Duarte Barbosa, người em vợ của F. Magellan sau đó được cử làm thuyền trưởng của tàu Victoria.
H3- Eo biển ngày nay mang tên Magellan, “The Straight of Magellan” cắt qua mũi cực nam của Nam Mỹ, nối Đại Tây dương với Thái Bình dương.
Ảnh trên internet của Wikipedia.
Ngay sau vụ nổi loạn, tàu Santiago lại gặp sự cố khi được cử đi do thám, tìm đường dọc theo bờ biển về phía Nam và bị một con bão bất ngờ nhấn chìm. Rất may là toàn bộ thủy thủ đều bơi được vào bờ an toàn. Họ cử người về báo cáo tình hình cho F. Magellan và xin cứu hộ. Sau sự cố này, Magellan quyết định chờ đợi thêm vài tuần trước khi tiếp tục hành trình. Vào ngày 21 tháng 10 năm 1520, tại vĩ độ 52 độ Nam, đoàn thám hiểm đã đến được Cape Virgenes và tin chắc rằng họ đã tìm ra được đường sang Thái Bình dương. 4 con tàu còn lại vượt qua một quãng đường gian khổ dài 373 hải lý trên một vùng nước mà F. Magellan gọi là Estrecho de Todos los Santos bằng tiếng Bồ Đào Nha hay All Saint’s Channel bằng tiếng Anh tức Eo biển các Thánh, do bởi đoàn thám hiểm của ông đi qua eo biển này vào ngày 1 tháng 11, ngày Các Thánh. Eo biển này giờ được mang tên ông, “The Straight of Magellan”. Lại một lần nữa xảy ra tình trạng chống lệnh chỉ huy trong đoàn thám hiểm. Khi được cử đi cùng tàu Conception để dò đường, tàu San Antonio, lúc này do Gomez làm thuyền trưởng đã tự ý tách đoàn và đổi hướng quay trở về Tây Ban Nha vào ngày 20 tháng 11. Vào ngày 28 tháng này, khi đoàn tàu sang được đến Nam Thái Bình dương thì chỉ còn 3 tàu. Khi thấy một vùng nước rất thanh bình, rộng mênh mông, F. Magellan đã thốt lên “Mar Pacifico” có nghĩa là “Pacific Ocean” trong tiếng Anh hay Thái Bình dương trong tiếng Việt.
H 4 - Tượng đài Ferdinand Magellan ở Punta Arenas, Chile, nhìn về hướng eo Magellan.
Ảnh trên internet của wikipedia
Khi sang đến Thái bình dương, đoàn thám hiểm đổi hướng chạy lên phía Tây Bắc và họ lại vượt qua đường xích đạo, trở lại Bắc bán cầu vào ngày 13 tháng 2 năm 1521. Ngày 6 tháng 3 cùng năm này, họ đến được các đsảo Marianas và Guam. F. Magellan đặt tên cho Guam là “Hòn đảo những cánh buồm” do nơi đây, phương tiện đi lại chủ yếu, nếu không muốn nói là duy nhất của người dân địa phương là những con thuyền buồm. Trong thời gian lưu lại những hòn đảo này, nhiều thuyền nhỏ, vốn là phương tiện để thủy thủ của đoàn thám hiểm đi vào bờ và từ bờ ra đảo, bị người dân địa phương lấy cắp mất (do được làm bằng kỹ thuật tinh xảo hơn, tốt hơn kiểu thuyền buồm hay thuyền độc mộc đơn sơ của người dân bản địa) nên họ cũng gọi những hòn đảo này bằng cái tên Những Hòn đảo Kẻ cắp – “Islands of Thieves”. Tiếp tục hành trình về hướng Tây, ngày 17 tháng 3 năm đó, F. Magellan cùng đoàn thủy thủ của ông, lúc này chỉ còn lại có 150 người từ quân số 270 người lúc đầu, tất cả đều bệnh tật, ốm yếu, đến được đảo Homonhon thuộc Philippines. Họ là những người Tây Ban Nha đầu tiên đặt chân đến miền đất này.
hãy giới thiệu cho bạn về trình vòng quanh thế giới bằng đường biển của Ph. Ma - gien - lan
giup voi
Vào ngày này năm 1519, nhà thám hiểm hàng hải người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan đã căng buồm ra khơi từ Tây Ban Nha trong một nỗ lực nhằm tìm kiếm tuyến đường biển phía Tây dẫn tới Quần đảo Gia vị (Spice Islands, tên tiếng Anh theo cách gọi “Hương liệu Quần đảo” của người Trung Hoa, nay là Quần đảo Maluku) trù phú của Indonesia.
Chỉ huy năm con tàu cùng hải đoàn gồm 270 thủy thủ, Magellan căng buồm tới Tây Phi và sau đó tới Brazil, nơi ông đi dọc theo bờ biển Nam Mỹ để tìm một eo biển dẫn tới Thái Bình Dương. Ông đã tới Río de la Plata, một cửa sông lớn nằm ở miền Nam Brazil để tìm lối đi nhưng thất bại; sau đó ông tiếp tục tìm dọc theo bờ biển vùng Patagonia.
Đến cuối tháng 3 năm 1520, đoàn thám hiểm thành lập một trạm nghỉ đông ở Cảng Saint Julian (ngày nay là Puerto San Julián). Đêm lễ Phục sinh, các thuyền trưởng người Tây Ban Nha trong hải đoàn đã nổi dậy chống lại chỉ huy người Bồ Đào Nha, nhưng Magellan đã dập tắt được cuộc nổi loạn, hành quyết một trong số những thuyền trưởng đó và để lại một người khi hải đoàn rời Saint Julian để tiếp tục cuộc hành trình vào tháng 8.
Ngày 21 tháng 10, cuối cùng Magellan cũng tìm được eo biển ông vẫn hằng tìm kiếm. Eo biển Magellen, được đặt theo tên ông, nằm gần mũi Nam Mỹ, phân tách Tierra del Fuego (Quần đảo Đất Lửa) với phần lục địa. Chỉ có ba con tàu tiếp tục hành trình; một đã bị đắm và một bị bỏ lại. Mất 38 ngày mới qua được eo biển đầy bất trắc, và Magellan đã bật khóc vì vui sướng khi nhìn thấy bờ bên kia đại dương. Ông là nhà thám hiểu người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Thái Bình Dương từ Đại Tây Dương.
Sơ đồ hành trình vòng quanh thế giới của Magellan. Nguồn: glogster.com.
Hải đoàn của ông vượt qua đại dương về phía Tây trong 99 ngày, một vùng nước yên bình đến lạ thường, bởi vậy mà đại dương này được gọi là “Pacific” (Thái Bình Dương), xuất phát từ chữ Latinh pacificus, có nghĩa là “yên tĩnh.” Gần cuối hành trình, hải đoàn đã cạn kiệt thức ăn và phải nhai da thuộc để giữ mạng sống. Ngày 6 tháng 3 năm 1521, đoàn thám hiểm đổ bộ lên đảo Guam.
Mười ngày sau đó, họ thả neo xuống đảo Cebú của Philippines—chỉ cách Quần đảo Gia vị gần 650 cây số. Magellan đã gặp tù trưởng Cebú, người sau khi cải đạo sang Thiên Chúa giáo đã thuyết phục những người châu Âu giúp đỡ ông trong trận chinh phạt một bộ lạc đối thủ trên đảo Mactan gần đó. Trong trận chiến diễn ra ngày 27 tháng 4, Magellan trúng một mũi tên tẩm độc và hy sinh trong khi những người đồng đội của ông rút lui.
Sau cái chết của Magellan, những người sống sót còn lại, trên hai con tàu, căng buồm tới Maluku và chất đầy hương liệu thu được ở đây. Một con tàu đã cố gắng trở về theo con đường Thái Bình Dương, nhưng thất bại. Con tàu còn lại, Vittoria, tiếp tục đi về phía Tây dưới sự chỉ huy của nhà thám hiểm Juan Sebastián de Elcano người xứ Basque. Con tàu đi qua Ấn Độ Dương, men theo Mũi Hảo Vọng, và cập bến cảng Sanlúcar của Tây Ban Nha vào ngày mùng 6 tháng 9 năm 1522, trở thành con tàu đầu tiên đi vòng quanh thế giới.
1)
Các nhà hàng hải | Thời gian | Kết quả |
B. Đi-a-xơ | 1487 | đến điểm cực nam châu Phi |
Va-xcô đơ Ga-ma | 1498 | cập bến ở tây nam Ấn Độ |
C. Cô-lôm-bô | 1492 | tìm ra châu Mĩ |
Ph. Ma-gien-lan | 1519-1522 | đi vòng quanh Trái Đất |
2) 1-b
2-a
3-c
4-d
3) Ph. Ma-gien-lan bắt đầu cuộc hành trình ở cảng Li-xon, Bồ Đào Nha. Sau đó, ông đi qua điểm cực nam Nam Mỹ. Ông tiếp tục vượt Thái Bình Dương và đến Phi-lip-pin. Ông vượt qua Ấn Độ Dương đến điểm cực nam châu Phi và trở lại Bồ Đào Nha sau 3 năm.
4) Các nhà hàng hải châu Âu đã mua những mặt hàng ở châu Á như tơ lụa, vải vóc, vàng bạc,...... Họ mua những mặt hàng đó để có nguyên liệu và mở rộng thị trường.
1
B.Đi-a-xơ\(-\) năm 1487 đến cực nam châu phi
Va-xcô đơ Ga-ma \(-\) năm 1497 đã cập bến ở tây nam ấn độ
C.Cô-lôm-bô \(-\)năm 1492 tìm ra châu mĩ
Ph.Ma-gien-lan \(-\)năm 1519 đến năm 1522 3 năm đi vòng quanh thế giới
2
1)e
2)a
3)c
4)d
3)
Ph. Ma-gien-lan xuất phát từ cảng Li-xbon vào năm 1519. Ông đã đi qua điểm cực nam Nam Mĩ và vượt Thái Bình Dương. Sau đó ông đến Phi-lip-pin. Ông vượt tiếp Ấn Độ Dương và đến diểm cực nam châu Phi.
Ngày 20/09/1519, một hạm đội gồm 5 chiếc thuyền nhỏ đã rời cảng Xê- vi thuộc Tây Ban Nha.
Đó là những thuyền Xan-an-tô-ni-ô, Tri-ni-đát, Vích-to-ni-a, Côn-xep-xi-ôn và Xan-ti-a-gô. Trong số 239 người sĩ quan và thủy thủ đã tham gia vào cuộc du hành đó chỉ có ít người về được.
Hạm đội Tây Ban Nha ấy do đô đốc Ma-gien-lan chỉ huy. Ma-gien-lan vốn không phải là người Tây Ban Nha mà là người Bồ Đào Nha, làm cuộc du hành Ma-gien-lan đã đặt ra một nhiệm vụ rất khó: tìm ra con đường nối liền Đại Tây Dương nối liền với Thái Bình Dương.
Ban hãy nhìn vào bản đồ, bạn sẽ thấy châu Mỹ, một lục địa rộng lớn, kéo dài từ những tảng băng hiểm hốc cùa Bắc Băng Dương cho đến những vùng nước lạnh giá của Nam Cực. Đó là một trở ngại lớn ngăn cách Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Ở thời Ma-gien-lan người ta đã khám phá ra những vùng biển phia tây của châu Mỹ gọi là biển lớn phương Nam.
Trước Ma-gien-lan đã có nhiều nhà du hành tìm cách đi vào vùng biển chưa biết này, nhưng họ đều vấp phải bờ biển châu Mỹ hoặc miền gần xích đạo, hoặc ở phía Bắc hoặc ở phía Nam. Do những thất bại đó mà đã có ý kiến cho rằng không thể đi từ Đại Tây Dương đến biển lớn phương Nam được.
Ma-gien-lan không đồng ý với điều đó và tin chắc chắn rằng ở phía Nam của Nam Mỹ sẽ có một eo biển nối liền hai đại dương. Nếu người ta cung cấp cho ông người và thuyền thì ông xin đảm nhiệm việc tìm ra eo biển đó.
Ở Bồ Đào Nha, ông đã vận động cho việc đó được mấy năm trời, nhưng không thành công. Ông đã rời đất nước để sang Tây Ban Nha. Ở đây ông đã được người ta nghe theo và phong ông làm đô đốc chỉ huy một hạm đội.
Đó là những lý do mà Ma-gien-lan, người Bồ Đào Nha, đã trở thành chỉ huy một hạm đội Tây Ban Nha trong cuộc thám hiểm xa xôi thế kia mà từ trước đến bấy giờ chưa có ai thực hiện.
Ma-gien-lan đã trả giá rất đắt đối với những lời hứa hẹn phong chức tước và ban thưởng của nhà vua khi chuyến đi thành công. Theo những điều ký kết với vua Tây Ban Nha ông sẽ được phong làm toàn quyền ở tất cả các đất đai sẽ tìm thấy và được hưởng một phần hai mươi những lợi tức sẽ thu được trên những đất đai ấy.
Những người lái buôn mang hàng từ phương Đông về lúc nào cũng bị những cơn bão tố đe doạ, những bọn cướp biển và cướp đường giết hại; họ còn phải nộp cống rất nặng cho chính quyền của các nước mà họ đi qua. Mặt khác, cuộc hành trình từ châu Âu sang phương Đông thường kéo dài 20 hay 30 năm. Bạn hãy nhớ lại các chuyến đi của Mác- cô Pô- lô hay A-pha-na-xi Ni-ki- tin.
Sau khi người Thổ chiếm đóng Côn – stan- ti- nốp năm 1453, thì những cuộc hành trình sang phương Đông trở nên khó khăn, hầu như không thể thực hiện được.
Đó là lí do làm cho một nắm hồ tiêu ở châu Âu đắt hơn một thùng hồ tiêu ở Mã- lai.
Những nhà giàu có Tây Ban Nha giúp cho Ma – gien- lan tổ chức cuộc thám hiểm chỉ vì họ mong muốn Ma – gien- lan tìm được một con đường ít nguy hiểm và ngắn hơn để đến Mô –luy –cơ “quần đảo hương liệu”. Hơn nữa họ còn hy vọng sẽ chiếm được những đảo ấy.
Hạm đội của Ma – gien- lan trên đường đến bờ biển châu Mỹ không gặp phải trở ngại gì lớn, mặc dù các thuyền trưởng Tây Ban Nha của các thuyền Xan-an-tô-ni-ô, Côn-xốp-xi-ô và Vích- to-ri-a luôn luôn gây sự với Ma – gien- lan và cố gieo những nỗi bất hoà giữa các thuỷ thủ chủng tộc khác nhau.
Nhưng khi đến bờ biển châu Mỹ mới bắt đầu thấy sự khó khăn. Ma – gien- lan ướt đoán rằng giữa hai đại dương phải có một eo biển, nhưng ông không biết chính xác vị trí của nó. Bở vậy, phải đi thám hiểm tất cả các vịnh lớn nhỏ để tìm ra cái eo biển bí mật và mong ước ấy.
Việc này đã làm mất nhiều thời gian quý báu. Lúc bấy giờ mùa đông sắp sửa đến, mùa đông ác nghiệp và rét mướt của Nam bán cầu.
Đã đếnn lúc Ma – gien- lan hiểu rằng nếu cứ tiếp tục cuộc hành trình thì thật là điên rồ, vì tất cả sẽ bị chìm đắm trong những cơn bão dữ dội thường hoành hành về mùa đông ở những khu vực đó. Năm thuyền đều bỏ neo trong một vịnh biển kín gió; đây là một trong những nơi sâu thẳm nhất của thế giới. Từng đợt sóng xám lạnh vỗ vào mạn thuyền. không có một bóng cây, không một ngọn cỏ trên bờ biển vắng tanh. Ngay cả những chim chóc, vì sợ mùa đông, đều lánh xa nơi buồn tẻ và vắng vẻ này. Tất cả thuỷ chung đều sầu não vì đô đốc Ma – gien- lan ra lệnh giảm khẩu phần: ông sợ thiếu lương thực để tiếp tục cuộc du hành.
Những thuyền trưởng xấu bụng liền lợi dụng tâm trạng đó của các thuỷ thủ và xúi dục họ nổi loạn. Ma – gien- lan đã dẹp yên cuộc nổi loạn ấy và nghiêm trị những kẻ cầm đầu. Không còn ai dám công khai chống cự ông nữa, nhưng mối căm thù của những sĩ quan Tây Ban Nha lại càng ngấm ngầm và tăng lên.
Sau 5 tháng trời nặng nề tránh rét, hạm đội lại tiếp tục tiến về phương Nam để đi tìm eo biển bí mật. Lúc ấy đã vào cuối mùa đông, nhưng những tai hoạ vẫn chưa hết. Thuyền xan-ti-a-gô là chiếc thuyền đi nhanh nhất đã bị đắm trong khi đi trinh sát. Một cơn bão đã xô mạnh thuyền vào bờ biển và đánh nó vỡ tung. Nhưng tất cả mọi người trên thuyền đều thoát nạn và được phân phối sang các thuyền còn lại.
Nhưng cuối sung ngày thắng lợi mà mọi người mong chờ đã đến, họ đã tìm thấy phía sau mũi đất cao có một vịnh ảm đạm ăn sau trong lục địa với nước đen xẩm và sóng dữ dội.
Ta có thể hình dung được nổi sung sướng của Ma – gien- lan lúc bấy giờ. Không phải vô ích mà ông đã vượt bao khó khăn, chịu đựng bao thiếu thốn… điều dự đoán của ông đã được xác minh, eo biển có thật và ông đã tìm thấy nó.
Về sau, eo biển đó mang tên Ma – gien- lan để tưởng nhớ đến nhà đi biển nổi tiếng. Bạn có thể tìm thấy tên eo biển đó trên bản đồ Nam Mỹ.
Bốn chiếc thuyền còn lại hết sức thận trọng và chậm rãi tiếp tục cuộc hành trình.
Hạm đội Ma – gien- lan phải mất một tháng mới vượt qua eo biển vừa tìm thấy. và cuối cùng “cửa mở” vào một đại dương mới, mà người châu Âu chưa biết đã hiện ra trước mắt. Niềm vui sướng rất lớn đến nổi làm cho Ma – gien- lan vốn bản tính nghiêm nghị cũng không cầm được nước mắt.
Bây giờ cần phải mau chóng đi về hướng tây, tới những “quần đảo hương liệu”.
Nhưng khi sắp sửa thành công, nhà thám hiểm dũng cảm lại bị thêm một tại hoạ mới: một mưa phản suýt làm thất bại tất cả công cuộc của ông. Người thuyền phó thuyền Xan An-ni- ô đã xúi dục thuỷ thủ nổi loạn và bí mật đưa thuyền quay về Tây Ban Nha.
Kẻ phản bội đã làm cho Ma – gien- lan bị tổn thất nặng: thuyền Xan An-tô-ni-ô đã mang đi phần lớn dự trữ lương thực và loại lượng thực tốt, vì thuyền Xan An-tô-ni-ô có trọng tải lớn nhất nên đô đốc để trong đó lương thực dự trữ lúc trở về.
Ông chỉ còn có ba chiếc thuyền buồm và rất ít lương thực. Nhưng ông đã quả quyết rằng:
Chúng ta cứ tiếp tục cuộc hành trình, dù phải ăn những miếng da bọc những trang bị trong thuyền!
Ngày 28/10/1520 hạm đội tiến vào vùng mênh mông của Thái Bình Dương mà chưa một thuyền của người châu Âu nào vượt qua.
Nếu Ma – gien- lan có thể biết trước được những khoảng cách rộng lớn mà ông phải vượt qua với những chiếc thuyền cũ và hư hỏng, có những cột buồm lung lay và những cánh buồm rách thì chưa chắc ông đã dám phiêu lưu mà thực hiện một cuộc du hành nguy hiểm như vậy. Nhưng ông không biết gì hết về điều đó.
Trước chuyến đi của Ma – gien- lan, người ta không ngờ rằng Trái đất lại to lớn như thế. Bởi vậy, đô đốc đã tưởng rằng muốn đi đến quần đảo Mô-luy-cơ chỉ vượt 3 hay 4 nghìn km. Nhưng sự thực là khoảng 18 nghìn km.
Đại dương mới đã đón tiếp những nhà du hành vào lúc thời tiết rất êm dịu: trời trong vắt không một đám mây, mặt trời ấm áp sưởi những thuỷ thủ đã bị giá rét trong một mùa đông dài, từng cơn gió nhẹ đẩy thuyền đi về phương tây. Vì thế, Ma – gien- lan đặt tên cho đại dương mới là Thái Bình Dương.
Nhưng sau này người ta mới rõ là đại dương này không luôn luôn trung thành với tên đó. Do diện tích mênh mông của nó, nên người ta đã đặt cho nó một tên khác. Vì thế, trên các bản đồ địa lí của một số nước nó thường có hai tên: Đại Dương Lớn hay Thái Bình Dương.
Máy tuần trôi qua, rồi một tháng, và một tháng nữa, nhưng trước mặt 3 chiếc thuyền buồm nhỏ, lúc nào cũng chỉ thấy đại dương mênh mông hùng vĩ.
Trên thuyền cảnh thiếu đói đã đến. Bấy giờ người ta mới biết rằng trong khi chuẩn bị cuộc du hành, nhưng kẻ thù của Ma – gien- lan đã đánh tráo mất nhiều hòm lương thực, đáng lý là bánh khô họ lại nhét đồ thối và hỏng vào. Khốn khổ thêm nữa là nạn chuột phá các hòm lương thực. Các thuỷ thủ bèn tổ chức những buổi săn chuột quyết liệt, và mỗi lần bắt được chuột lại là những bữa ăn tươi ngon lành.
Rượu vang dự trữ hết đã lâu, nước ngọt trong các thùng đã bị hỏng, mùi vị ghê tởm đến nổi mỗi lần uống người ta phải bịt mũi.
Rồi cuối cùng đã đến ngày mà nỗi linh cảm sầu thảm của Ma – gien- lan đã thành sự thực: những người đi biển đã phải ăn những miếng da bọc các trang bị trong thuyền. Để làm cho da mền, các thuỷ thủ phai ngâm nó mấy ngày trong nước biển rồi cắt nhỏ, nướng vào lửa rồi nuốt chững vì không thể nào nhai được. Mọi người đều bị đau ghê gớm trong dạ dày.
Tháng thứ ba trong cuộc du hành sắp hết, nhiều thuỷ thủ chết đói. Người chết phải vất xuống biển, biến thành mồi cho đàn cá mập hấu đói.
Mọi người đều khiếp sợ, họ linh cảm là mình sẽ chết ở nơi mênh mông vô tận này và không bao giờ còn thấy đất liền nữa.
Nhưng Ma – gien- lan hiểu rằng quay trở lại là điều không thể được, sớm hay muộn thế nào cũng đến được một hòn đảo nào đấy, còn quay trở lại thì không đủ sức và lương thực nữa.
Họ phải mất đến ba tháng trong cuộc du hành ghê sợ này mới trông thấy được đất, hay nói cho đúng là một dãy núi đá trơ trụi và sầu thảm, không có một giọt nước, một ngọn cỏ. Tuy vậy, các thuỷ thủ lại thấy phấn khởi: đại dương mênh mông đã hết và có thể sắp sửa sẽ thấy những hòn đảo, ở đó có nước ngọt và lương thực. Thật vậy, chẳng bao lâu điều chờ đợi của họ đã đến.
Ngày 6/3/1521, các thuỷ thủ đã tìm ra một hòn đảo. Thật là một kỳ quan: đảo có nhiều cây dừa và suối nước ngọt, thứ nước trong và mát mà họ đã khao khát từ lâu. Trên đảo có người ở và gia súc. Thế là có thể được ăn thịt tươi. Những đau khổ dài dẳng của họ đã chấm dứt.
Lúc này, người ta có thể hy vọng rằng tất cả tài họa của cuộc thám hiểm đã chấm dứt, ba chiếc thuyền còn lại sẽ đi từ đảo này đến đảo kia một cách yên lặng, thanh bình và về đến châu Âu, đến nước nhà trong thắng lợi vinh quang.
Nhưng không, sự việc đã không như vậy! Ma – gien- lan và các bạn đồng hành lại tự chuốt lấy thêm biết bao tai hoạ. Nhưng tai họa ấy không phải do thiên nhiên, mà do lòng hám lợi và tính hiếu xâm lăng của các thuỷ thủ.
Ma – gien- lan can thiệp vào những cuộc xích mích giữa các trù trưởng các bộ lạc nhỏ ở dãi Phi-lip-pin. Với một nhóm 60 người có mang áo giáp và khí giới, Ma – gien- lan đã tấn công 1000 thổ dân đảo Man-tan chỉ có cung tên và giáo mác. Ma – gien- lan đã chết tại đây.
Như vậy đã kết liễu cuộc đời của nhà đi biển nổi tiếng không hoàn thành được sự nghiệp của mình.
Sau cái chết của Ma – gien- lan và nhiều bạn đồng hành, các thuyền Tây Ban Nha còn đi lang thang trong một thời gian dài nữa giữa các hòn đảo nằm rải rác trong vùng biển từ châu Á đến châu Úc. Họ chỉ còn lại hai chiếc thuyền là Vích- to- ri- a và Tri- ni- đát. Còn chiếc thuyền Côn- xép-xi- ôn bị hư hỏng nhiều, phải đốt đi để khỏi rơi vào tay các thổ dân.
Nhưng rồi thuyền Tri-ni-đát cũng bị hư hỏng nhiều, không thể đương đầu với sóng biển để đến châu Âu được. Người ta quyết định đổ lại để sửa chữa, chỉ còn một mình thuyền Vích-to-ri-a với 47 thuỷ thủ trở về dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Xê-ba-chiên đen Ca-nô là một trong những thuỷ thủ giỏi nhất trong bọn còn lại .
Chiếc Tri-ni-át sau đó không trở về được Tây Ban Nha. Sau những chuyến đi dài trong các quần đảo, thuyền bị đắm, các thuỷ thủ đều bị chết, trừ bốn người sống sót trở về quê hương. Còn chiếc Vích – to –ri-a đầy đủ lương thực và nước uống đã lên đường về châu Âu.
Đoạn đường này thật ghê sợ, lương thực bị hư hỏng, nước uống bị thối…
Trên thuyền đã mang được 26 tấn hương liệu, đó là một giá trị rất lớn vào thời bấy giờ. Người Tây Ban Nhan có dược những hương liệu đó là nhờ họ trao đổi với dân thổ cư trong những quần đảo thuộc biển Đông; nhưng hương liệu chỉ dung để làm gia vị cho thức ăn, mà thức ăn thì họ lại không có.
Chiếc Vích – to- ri- a đã cập bến Xê-vi vào ngày 8/9/1522. Chỉ có 18 thuỷ thủ đứng trên mạn thuyền, dưới lá cờ Tây Ban Nha bay phất phới. Cuộc du hành vòng qunh thế giới đầu tiên đã kéo dài trong 3 năm kém 12 ngày.
Tuy nhiên, những người lái buôn Tây Ban Nha lấy làm thoả mãn, 26 tấn hương liệu được bù lại rộng rãi tất cả phí tổn của cuộc thám hiểm, kể cả tiền mua các thuyền.
Thật ra đã có 160 sĩ quan và thuỷ thủ bị chết trong cuộc thám hiểm đó, nhưng điều đó không làm cho họ ưu phiền: tính mệnh con người đối với họ không đáng giá một đồng xu!
Cuộc thám hiểm nổi danh của Ma – gien- lan đã kết thúc như vậy.
Lần đầu tiên người ta có thể chứng minh một cách không thể chối cãi được rằng Trái đất là một quả cầu và ta có thể đi vòng quanh được.
Ngày nay ta khó mà hình dung được phát triển vĩ đại đó đã gây ấn tượng kinh ngạc lớn lao như thế nào đối với các người đồng thời của Ma – gien- lan.
Hãy nhìn trên bản đồ thế giới, trước Cô-lôm-bô người châu Âu chưa biết có một lục địa châu Mỹ khổng lồ; trước Ma – gien- lan họ không có quan niệm gì về khoảng rộng của Thái Bình Dương. Họ đã hình dung Trái đất như người ta đã quan niệm cách đây 450 năm, trước những phát kiến phi thường của Cô-lôm-bô và Ma – gien- lan.