Hãy viết một đoạn văn ngắn nêu ý kiến về những điều cần làm, thái độ cần có của giới trẻ đối với quá khứ hào hùng, truyền thống anh dũng của đất nước.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
Thời gian trôi qua sẽ không lấy lại được. Mỗi con người cũng chỉ được sống một lần duy nhất trong đời, chúng ta hãy sống một cuộc đời thật trọn vẹn với tình yêu thương, sự sẻ chia với người khác. Có thể thấy, lòng yêu nước đã góp phần không nhỏ khiến cho cuộc sống này tốt đẹp hơn.
Vậy thế nào là tinh thần yêu nước? Tinh thần yêu nước chính là sự biết ơn đối với những người đi trước đã cống hiến cho đất nước, yêu quý quê hương, có ý thức học tập, vươn lên để cống hiến cho nước nhà và sẵn sàng chiến đấu nếu có kẻ thù xâm lược.
Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã là một sự may mắn, chính vì vậy chúng ta cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà vững mạnh, có thể chống lại mọi kẻ thù. Mỗi người khi học tập, lao động, tạo lập cho mình một cuộc sống tốt đẹp cũng chính là cống hiến cho tổ quốc. Bên cạnh đó, việc yêu thương, giúp đỡ đồng bào, đoàn kết không chỉ giúp cho chúng ta được yêu thương, trân trọng trong mắt mọi người mà nó còn thể hiện sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Là một học sinh trước hết chúng ta cần học tập thật tốt, nghe lời ông bà cha mẹ, lễ phép với thầy cô. Có nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc. Luôn biết yêu thương và giúp đỡ những người xung quanh,…
Tuy nhiên vẫn còn có nhiều bạn chưa có nhận thức đúng đắn về tình yêu cũng như trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước, chỉ biết đến bản thân mình, coi việc chung là việc của người khác,… những người này đáng bị xã hội thẳng thắn lên án.
Mỗi người chỉ được sống một lần, chúng ta hãy sống hết mình với tinh thần yêu nước để làm cho xã hội này ngày càng tốt hơn, con người được sống tình cảm hơn vì vốn dĩ: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Tính đến thời điểm này, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc (2/9/1945) tại Quảng trường Ba Đình lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, thì lịch sử Việt Nam còn ghi nhận có tới hai văn bản khác được coi là bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc. Bao gồm: "Nam quốc sơn hà" (tương truyền của Lý Thường) và "Bình Ngô đại cáo" (Nguyễn Trãi). Vậy một tác phẩm văn học như: "Nam quốc sơn hà" với bốn câu thơ ngắn ngủi có xứng đáng được coi là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam?
Như chúng ta đã biết, Tuyên ngôn độc lập là văn bản chính luận được viết ra với mục đích tuyên bố với đồng bào trong nước và toàn thể nhân dân thế giới về nền độc lập và về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ cần được tôn trọng. Bài thơ "Nam quốc sơn hà" được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta trước hết vì bài thơ là lời tuyên bố hùng hồn về nền độc lập chủ quyền của đất nước:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Nước Nam ta là một đất nước độc lập, có chủ quyền riêng và vua chính là đại diện tối cao cho dân tộc. Ranh giới bờ cõi của nước Nam không chỉ được ghi nhận qua những trang sử hào hùng của dân tộc mà còn được ghi rõ ràng ở sách trời "tại thiên thư". Đó là một chân lý hiển nhiên: Sông núi nước Nam là của vua Nam, là của người dân nước Nam, một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi . Trong lời tuyên bố về chủ quyền , tác giả còn thể hiện sâu sắc thái độ tự hào, tự tôn dân tộc khi coi nước Nam là một nước ngang hàng với nước Bắc, vua Nam bằng vai với hoàng đế Trung Quốc, qua việc sử dụng từ "đế" mà không dùng từ "vương" (chữ "đế" và chữ "vương" đều có nghĩa là vua, người đứng đầu 1 đất nước, đại diện cho nhân dân, nhưng trong các triều đại phong kiến Trung Quốc xưa, vua Trung Quốc tự xưng là "đế"( có thể hiểu là ông vua lớn) còn các ông vua đứng đầu ở các nước láng giềng thần phục chỉ phong "vương" (có thể hiểu là ông vua nhỏ). Với cách sử dụng ngôn từ sắc sảo như vậy, rõ ràng địa vị và tầm vóc của nước Nam ta đã được nâng lên một tầm cao mới.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên ấy, cha ông ta không chỉ khẳng định nền độc lập và chủ quyền của dân tộc mà còn thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập, chủ quyền ấy:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Lý Thường Kiệt coi quân xâm lược là "nghịch lỗ" (kẻ đi ngược lại với lẽ phải, với đạo trời), bài thơ "Nam quốc sơn hà" đã đưa ra lời cảnh cáo đanh thép: Chúng mày dám sang xâm phạm vào bờ cõi và chủ quyền thiêng liêng của nước Nam, thì tự chúng mày sẽ chuốc lấy bại vong thảm hại! Đó là cái kết cục xứng đáng cho những kẻ phạm vào sách trời, phạm vào đấng linh thiêng, coi thường chân lý, lẽ phải! Câu thơ vừa là một đòn tấn công mạnh mẽ giành cho kẻ thù xâm lược vừa có ý nghĩa khích lệ tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm của nhân dân với Tổ quốc...
Có thể nói không cần phải sử dụng quá nhiều ngôn từ, nhưng "Nam quốc sơn hà" vẫn làm rõ được những vấn đề mang tính trọng đại, lớn lao của quốc gia, dân tộc. Đó là lời tuyên bố đanh thép khẳng định chủ quyền về cương vực lãnh thổ và nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ toàn vẹn nền độc lập dân tộc, quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Với ý nghĩa sâu sắc ấy, "Nam quốc sơn hà" hoàn toàn xứng đáng là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt nam ta!
Trước hết cần khẳng định, yêu nước và lòng tự hào dân tộc không phải chỉ riêng có, “độc quyền” của dân tộc Việt Nam, mà đó là thuộc tính phổ biến ở mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, do lịch sử và những điều kiện của mình, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc đã trở thành sức mạnh, là động lực và hơn nữa, nó được kết tinh thành truyền thống, triết lý phát triển của dân tộc.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc đã tạo nên chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Nó là sức mạnh, là động lực chủ yếu, quyết định nhất của dân tộc và mỗi người dân khi lên chống lại mọi cuộc xâm lăng của nước ngoài. Vì thế, triết lý phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay luôn là dựng nước đi liền với giữ nước. Ngay cả nội hàm khái niệm “phát triển bền vững” hiện nay, chúng ta cũng xác định: bên cạnh là sự “tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi đôi với tiến độ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường” còn có cả “giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập”(). Điều đó có nghĩa, phát triển bền vững ở Việt Nam không chỉ là sự phát triển về mặt kinh tế có sự kết hợp hài hòa, hợp lý với phát triển xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường như nhiều nước trên thế giới quan niệm, mà đó còn là “chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia”.
Ngoài ra, trong những trụ cột đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững hiện nay là áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì động lực quan trọng nhất được mọi quốc gia chú trọng là con người. Tuy nhiên, ở Việt Nam, con người trong triết lý phát triển của dân tộc không chỉ là mặt “tài” với kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo… mà còn bao hàm cả mặt “đức”. Điều đó, một phần được lý giải bởi yếu tố lịch sử dân tộc nêu trên, nhưng phần chính còn do chính bản thân yếu tố con người trong phát triển bền vững.
Khác với dân tộc phương Tây, khi học thuyết về sự phát triển của họ thường hướng đến khám phá các quy luật tự nhiên, chinh phục và làm chủ tự nhiên, triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam cũng như phương Đông thường hướng tìm trong lĩnh vực xã hội, trong những vấn đề liên quan đến con người. Để “trị quốc”, ổn định xã hội, phát triển bền vững thì các dân tộc phương Đông rất coi trọng vấn đề “an dân”, giải quyết mối quan hệ xã hội giữa con người với con người, phải có được “Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa”, trong đó “nhân hòa”, “Đắc nhân tâm” – thu phục được lòng người, phát huy yếu tố con người – là quan trọng nhất, được coi là triết lý của sự ổn định và phát triển ở cả cấp độ cá nhân và xã hội. Do vậy, từ lịch sử trước kia đến những chính sách dùng người hiện nay của Đảng ta, luôn coi trọng việc tu dưỡng, rèn luyện bản thân, để họ có “đức trọng, tài cao”, để trở thành “hiền tài” – nguyên khí của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”(2). Cố giáo sư Trần Văn Giàu cũng viết: Vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất quan trọng là tùy thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta quên lãng và chôn vùi món vũ khí tinh thần ấy. Và trong thực tế cách mạng, qua những phong trào do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động như “Quỹ Độc lập”, “Tuần lễ vàng” hay “Phong trào thi đua yêu nước” đã cho thấy sức mạnh, động lực quan trọng của việc phát huy tinh thần yêu nước của nhân dân vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Tuy nhiên, thực tế từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đến nay đã gần 30 năm, thì tinh thần yêu nước ấy đã không thực sự trỗi dậy, phát huy nữa, nó vẫn chỉ được thể hiện khi bờ cõi, lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm, còn trong xây dựng kinh tế, văn hóa, nó lại trầm xuống hẳn. Chúng ta vẫn chưa thể bằng kinh tế, văn hóa mà gây dựng được hình ảnh, thương hiệu quốc gia và đưa đất nước đi lên từ chính những lợi thế, tiềm năng của mình giống như trước đây đã từng làm được trong các cuộc chiến tranh.
“Chúng ta cần có dũng khí để bước vào cuộc chiến tranh nhưng cũng cần dũng khí để bước ra khỏi cuộc chiến tranh”. Chiến tranh gây cho Việt Nam đến tận ngày nay những hậu quả rất nặng nề về vật chất, con người. Thế nhưng không vì thế mà chúng ta lấy chiến tranh làm lá chắn, tránh né nhìn thẳng vào sự thật rằng, chính yếu tố con người mới là lý do chủ yếu. Chúng ta hãy nhìn sang Nhật Bản đã vươn lên mạnh mẽ như thế nào từ vực thẳm chiến tranh, hay một Singapore nhỏ bé nhưng được thế giới biết đến là “thành phố tốt nhất trên thế giới để sống và làm việc”, một Hàn Quốc với sự “lên ngôi” của “Hallyu” – “làn sóng Hàn Quốc”… Tất cả đều do họ sáng tạo và có những điều kiện để sáng tạo? Đúng, nhưng quan trọng hơn chính là họ luôn ý thức mãnh liệt về giá trị và hào khí dân tộc, để rồi luôn ý thức về việc phải khẳng định nó, đánh bóng nó trên trường quốc tế, phải làm cho quốc gia mình lớn mạnh. Còn Việt Nam, tại sao vẫn cứ nằm mãi ở nhóm nước đang phát triển và đôi khi bị nhắc đến với cái tên “thế giới thứ ba”? Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chính là chúng ta chưa đánh thức ý thức dân tộc, để niềm tự hào và ý thức trách nhiệm lớn dần lên trong lòng mỗi người. Vì vậy, việc xây dựng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc đang ngày càng trở nên bức thiết hơn lúc nào hết.
Trước hết, để xây dựng tinh thần dân tộc, chúng ta cần nhận ra bối cảnh hiện nay. Nước ta vẫn là một nước nghèo, đời sống của đại bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, khoa học và công nghệ còn lạc hậu. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn đang chống phá nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng.
Xu thế toàn cầu hóa đang có những tác động không nhỏ đến tinh thần yêu nước hiện nay của nhân dân ta theo những chiều hướng khác nhau. Chúng ta dễ dàng tiếp cận được với thế giới dưới những hình thức đa dạng của toàn cầu hóa, ranh giới giữa các nước như mờ đi, khoảng cách địa lý như ngắn lại, mức độ cập nhật thông tin như tức khắc, sự xâm nhập lẫn nhau về tư tưởng, lối sống giữa các quốc gia là rất lớn. Trước tình hình đó, nhiều người tự thấy trách nhiệm của mình đối với đất nước, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc được đánh thức bởi “trông người lại nghĩ đến ta” và mong muốn làm được một điều gì đó có ích cho dân tộc mình, đất nước mình. Nhưng mặt khác, cũng đã xuất hiện không ít tư tưởng so sánh rồi bi quan về tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nước ta so với các nước khác. Thậm chí đã có người đánh đổi tất cả, kể cả Tổ quốc để đến được một cuộc sống vật chất tốt hơn. Không ít người được cử ra nước ngoài học tập nhưng lại không muốn trở về nước để phục vụ Tổ quốc, họ tìm mọi cách ở lại nhằm có được cuộc sống giàu sang, sung sướng cho riêng mình. Tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước vốn có trước kia bây giờ đã có dấu hiệu giảm sút. Nhiều thanh niên trốn tránh nghĩa vụ quân sự, không muốn cống hiến, chỉ muốn hưởng thụ. Cũng có không ít người còn lợi dụng chính sách mở cửa để kiếm lợi riêng cho bản thân mình, bất chấp cả lợi ích quốc gia, dân tộc. Đã xuất hiện tư tưởng sùng bái một cách tuyệt đối các giá trị vật chất cũng như tinh thần của các nước tư bản phát triển dẫn tới đánh mất lòng tự hào dân tộc, làm tăng mức độ đòi hỏi về quyền lợi mà không chú trọng tới nghĩa vụ của bản thân mình đối với Tổ quốc.
Thêm vào đó, sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường làm cho nhiều người dân chỉ mải mê kiếm tiền bằng mọi cách mà ít nghĩ đến vận mệnh đất nước. Trong khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và làm giảm sức chiến đấu của Đảng ta.
Rõ ràng, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tinh thần yêu nước truyền thống phải được kế thừa và phát huy một cách cao độ hơn bao giờ hết, nhưng tinh thần đó cũng cần phải được bổ sung những nội dung và hình thức mới cho phù hợp. Nếu như trước đây, tinh thần yêu nước truyền thống lấy độc lập dân tộc làm mục tiêu cao nhất với phương châm “Tất cả cho tiền tuyến”, thì ngày nay, yêu nước tiến tới mục tiêu cao hơn là mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(3). Vì vậy, để xây dựng và phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong bối cạnh hiện nay, theo chúng tôi:
Thứ nhất, tích cực tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc trong mọi tầng lớp xã hội.
Tuyên truyền, giáo dục để xây dựng, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nhất là cho thế hệ trẻ để họ hiểu biết, tin tưởng vào truyền thống dân tộc, đồng thời có bản lĩnh trí tuệ, có tình thương trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước.
Tuyên truyền, giáo dục để mọi người có nhận thức đúng rằng trong xã hội có giai cấp thì yêu nước cũng có tính giai cấp và chủ nghĩa yêu nước cũng biến đổi cùng với sự biến đổi của xã hội. Yêu nước hiện nay phải là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo. Mặt khác, yêu nước hiện nay còn phải gắn với sự phát triển chung của phong trào xã hội chủ nghĩa, gắn với tinh thần yêu chuộng hòa bình và tình hữu nghị giữa nhân dân lao động các dân tộc trên thế giới như quan điểm của Đảng ta: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Trong tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc cần chú ý tránh tư tưởng tự ti hay bi quan rồi từ đó so sánh, trách móc… Thái độ đó chỉ có thể dẫn đến hạ thấp chúng ta và làm giảm hoặc triệt tiêu động lực cá nhân và đất nước. Chúng ta không phủ nhận sai lầm, khuyết điểm, dù do nó có cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, nhưng chúng ta cũng cần nhận thức được rằng, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện nay là lâu dài, rất khó khăn, phức tạp.
Trong tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước và lòng dân tộc cần đổi mới, lựa chọn, kết hợp và vận dụng sáng tạo các phương thức và hình thức tuyên truyền, giáo dục để mọi tầng lớp trong xã hội đều dễ hiểu, dễ tiếp thu và cuối cùng là chuyển thành hành động yêu nước cụ thể. Đây cũng là nội dung thứ hai.
Thứ hai, cụ thể hóa các cách thức biểu hiện tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc, biến tư tưởng yêu nước thành hành động cách mạng.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế… Tất cả những vấn đề trên đều có cả thời cơ và thách thức. Để đạt mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta xác định là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thì phải cụ thể hóa tinh thần yêu nước thành các phong trào “Thi đua ái quốc” theo tinh thần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thi đua là yêu nước – yêu nước thì phải thi đua.
Cùng với tinh thần yêu nước được thể hiện qua các phong trào thi đua, các cuộc vận động… thì phải xây dựng lòng tự hào dân tộc trong điều kiện hiện nay. Đó là xây dựng tinh thần dám nghĩ, dám làm; tư duy độc lập, sáng tạo trong lao động và học tập; tinh thần vươn lên, vượt qua khó khăn, tạo ra sản phẩm, công việc để làm giàu chính đáng cho mình và cho xã hội; là tinh thần đấu tranh với cái sai, cái xấu, với những vấn đề xã hội bức xúc như quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Xây dựng lòng tự hào dân tộc còn ở chỗ là giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc nhằm bảo vệ Tổ quốc, trong đó có bảo vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như quan điểm mới của Đảng ta.
Thứ ba, tạo lập và bảo đảm “môi trường” thể hiện tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc.
Không kêu gọi, hô hào tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc chung chung mà nó phải được đảm bảo thực hiện trong thực tế với những điều kiện và con người cụ thể. Bởi, ngoài sự tự giác thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, thì luật pháp, cơ chế, môi trường, các tổ chức hội, đoàn thể là vô cùng quan trọng. Trách nhiệm này trước hết thuộc về Đảng và Nhà nước ta, phải thẳng thắn nhìn thẳng vào sự thật để soi xét những vướng mắc và tự đổi mới mình trong thể chế, cơ chế, chủ trương, chính sách… để mỗi công dân cần, được và có thể thực hiện tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Ngoài ra, cần có các giải pháp và phối hợp từ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng trong xã hội để tạo thành một cơ chế chung thống nhất; sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội; việc tôn vinh gương người tốt việc tốt; việc phê phán những biểu hiện của thói vô cảm, hay những tiêu cực đã và đang phát sinh… chính là “môi trường” để qua đó mỗi công dân “tự ngắm” lại mình, chỉnh sửa mình bằng những việc làm ngày càng cụ thể, ích lợi hơn.
Từ bao đời nay, tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc đã ngấm sâu vào huyết quản mỗi người con đất Việt, đã trở thành một tình cảm rất đỗi tự nhiên, một sức mạnh và động lực cho phát triển bền vững của dân tộc. Thế nhưng, nếu quá khứ chỉ là một tri thức đơn thuần, sức mạnh từ nó chỉ dừng ở niềm tự hào thì Việt Nam sẽ mãi không thể tiến kịp thế giới đang thay đổi từng ngày. Không có dòng sông nào chảy mãi nếu con người không biết khơi nguồn. Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc của nhân dân cũng có thể bị nguội lạnh đi nếu không được chăm lo nuôi dưỡng. Vì vậy, giương cao ngọn cờ tinh thần dân tộc, tạo ra nội lực thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước, đang là một đòi hỏi cấp bách, một nội dung quan trọng hàng đầu trong công tác chính trị – tư tưởng của chúng ta hiện nay.
tham khảo
Từ xưa đến nay nhân dân ta đều có một lòng nồng làn yêu nước. Qua lời căn dặn của bác tuy lời nói mộc mạc nhưng ý nghĩa không tầm thường vô cùng sâu sắc. Truyền thống tốt ấy được truyền từ bao thế hệ nay, bởi lẽ truyền thống tốt đẹp ấy đã ngấm vào máu con người Việt Nam không gì có thể xóa mờ hay thay thế. Đối với chúng ta còn lạ những cô cậu học sinh ngồi ghế nhà trường hãy góp sức phát huy truyền thống yêu nước ấy, " Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình".Chúng ta cần phải học tập chăm chỉ để mai sau trở thành người có ích cho đất nước, xã hội , hay chỉ là cùng nhau tham gia bảo vệ môi trường để đất nước mãi màu xanh, giúp đỡ nhau trong học tập để không ai dị bỏ lại phía sau,... Những việc làm ấy tuy nhỏ nhưng biểu hiện ấy đã giúp chúng ta kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc.
- Lời nói, việc làm thể hiện sự trân trọng, tự hào về truyền thống lịch sử và văn hoá của đất nước:
+ Tranh 1: Đến thăm di tích lịch sử của dân tộc.
+ Tranh 2: Học nhạc cụ truyền thống của dân tộc.
+ Tranh 3: Lắng nghe các dòng nhạc dân tộc.
+ Tranh 4: Giới thiệu các di tích và sự kiện lịch sử đến bạn bè.
- Một số việc làm khác để thể hiện niềm tự hào về truyền thống lịch sử, văn hoá của đất nước:
+ Tham gia bảo tồn các di tích lịch sử, văn hoá ở địa phương.
+ Lên kế hoạch, thực hiện các dự án quảng bá văn hoá Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.