K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Này là ý kiến của mình thôi ạ!

E đồng ý vs câu nói của ng mẹ.

8 tháng 1

cảm ơn


8 tháng 1

“Những bông hoa hình trái tim” của Võ Thu Hương là một tác phẩm nổi bật trong văn học trẻ Việt Nam, thể hiện sâu sắc tình yêu và khát vọng sống của con người. Chủ đề chính của tác phẩm xoay quanh tình yêu thương, lòng kiên trì và sức mạnh của hy vọng trong cuộc sống. Qua những nhân vật với hoàn cảnh khó khăn, tác giả khéo léo khắc họa những ước mơ giản dị nhưng đầy mãnh liệt, từ đó tạo ra một bức tranh sinh động về cuộc sống. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm nằm ở việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế và hình ảnh biểu tượng. Những bông hoa hình trái tim không chỉ là hình ảnh đẹp đẽ mà còn tượng trưng cho tình yêu, sự hi sinh và lòng nhân ái. Võ Thu Hương đã khéo léo kết hợp giữa miêu tả và tự sự, tạo nên những khoảnh khắc cảm động, khiến người đọc rung động trước những số phận khác nhau. Bên cạnh đó, nhịp điệu và âm điệu trong văn bản cũng góp phần làm nổi bật cảm xúc, giúp người đọc dễ dàng hòa mình vào thế giới của các nhân vật. Tác phẩm không chỉ mang tính giải trí mà còn truyền tải thông điệp sâu sắc về sức mạnh của tình yêu và niềm tin trong cuộc sống.

Trong bài "Những bông hoa hình trái tim" của Võ Thu Hương, tác giả đã khéo léo thể hiện chủ đề về tình yêu và lòng kiên trì của con người. Câu chuyện kể về những bông hoa nhỏ bé nhưng lại mang trong mình ý nghĩa lớn lao, giống như tình yêu của con người luôn ẩn chứa những giá trị sâu sắc và mạnh mẽ. Tác giả sử dụng hình ảnh "những bông hoa hình trái tim" để tượng trưng cho tình yêu, khát vọng và sự hi sinh, đồng thời gợi lên sự quý giá của những điều bình dị trong cuộc sống. Về mặt nghệ thuật, bài viết sử dụng các biện pháp so sánh, ẩn dụ và hình ảnh sinh động để làm nổi bật chủ đề. Hình ảnh "hoa hình trái tim" không chỉ đẹp mà còn rất ý nghĩa, thể hiện sự kết nối giữa tình cảm và thiên nhiên. Ngoài ra, việc lặp lại một số từ ngữ giúp tạo nhịp điệu và làm nổi bật cảm xúc của tác giả.

8 tháng 1

mik có trả lời câu hỏi của bạn rồi bạn xem lại nhé

Trong bài "Những bông hoa hình trái tim" của Võ Thu Hương, tác giả đã khéo léo thể hiện chủ đề về tình yêu và lòng kiên trì của con người. Câu chuyện kể về những bông hoa nhỏ bé nhưng lại mang trong mình ý nghĩa lớn lao, giống như tình yêu của con người luôn ẩn chứa những giá trị sâu sắc và mạnh mẽ. Tác giả sử dụng hình ảnh "những bông hoa hình trái tim" để tượng trưng cho tình yêu, khát vọng và sự hi sinh, đồng thời gợi lên sự quý giá của những điều bình dị trong cuộc sống. Về mặt nghệ thuật, bài viết sử dụng các biện pháp so sánh, ẩn dụ và hình ảnh sinh động để làm nổi bật chủ đề. Hình ảnh "hoa hình trái tim" không chỉ đẹp mà còn rất ý nghĩa, thể hiện sự kết nối giữa tình cảm và thiên nhiên. Ngoài ra, việc lặp lại một số từ ngữ giúp tạo nhịp điệu và làm nổi bật cảm xúc của tác giả.

8 tháng 1

Đức hi sinh thầm lặng trong thời đại ngày nayThời đại ngày nay, với nhịp sống hối hả và sự cạnh tranh khốc liệt, những hành động hi sinh thầm lặng dễ bị lu mờ giữa dòng chảy ồn ào của thông tin và sự chú trọng vào thành tựu cá nhân. Tuy nhiên, đức hi sinh vẫn tồn tại, vẫn âm thầm tỏa sáng, góp phần tạo nên vẻ đẹp của nhân loại. Nó không phải là những hành động hào hùng, lộng lẫy trên báo chí, mà là những việc làm nhỏ bé, giản dị, được thực hiện mỗi ngày, với sự tận tâm và hy sinh thầm lặng.Một trong những hình ảnh tiêu biểu của đức hi sinh thầm lặng là những người lao động chân tay. Họ là những người dọn vệ sinh, những công nhân xây dựng, những tài xế xe ôm, những người bán hàng rong… Hàng ngày, họ miệt mài làm việc, chịu đựng nắng mưa, khó khăn, để kiếm sống và đóng góp cho xã hội. Công việc của họ không được nhiều người chú ý, thậm chí bị xem nhẹ, nhưng chính họ là những người giữ cho xã hội vận hành trơn tru. Sự hy sinh của họ nằm ở việc dành trọn thời gian và sức lực cho công việc, chấp nhận những gian khổ để đảm bảo cuộc sống cho gia đình và đóng góp cho cộng đồng.Bên cạnh đó, đức hi sinh thầm lặng còn được thể hiện qua những người thân trong gia đình. Những người mẹ, người cha, người vợ, người chồng, ngày ngày chăm sóc con cái, chăm lo cho gia đình, hy sinh sở thích cá nhân để vun đắp hạnh phúc gia đình. Họ không cần sự khen ngợi hay đền đáp, chỉ cần thấy gia đình hạnh phúc, con cái trưởng thành là đủ. Sự hy sinh của họ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của mỗi cá nhân và xã hội.Thậm chí, đức hi sinh thầm lặng còn hiện diện trong những hành động nhỏ bé nhất. Một người nhường chỗ trên xe buýt cho người già, một người giúp đỡ người khuyết tật qua đường, một người tình nguyện tham gia hoạt động từ thiện… Tất cả đều là những hành động thể hiện sự quan tâm, chia sẻ và lòng tốt của con người. Những hành động này tuy nhỏ nhưng lại có ý nghĩa rất lớn, góp phần làm cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn.Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và sự cạnh tranh gay gắt, đức hi sinh thầm lặng dễ bị lãng quên. Sự chú trọng vào thành tích cá nhân, vào vật chất đôi khi làm lu mờ những giá trị tinh thần cao đẹp. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức về giá trị của đức hi sinh thầm lặng là rất cần thiết. Chúng ta cần phải biết trân trọng và ghi nhận những đóng góp thầm lặng của những người xung quanh, để tạo nên một xã hội văn minh, nhân ái và giàu lòng nhân đạo. Chỉ khi đó, đức hi sinh thầm lặng mới thực sự được tỏa sáng và lan tỏa, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

8 tháng 1

Xin tick bạn ơi

hắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta. Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi. Mở đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài Cáo: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt: Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương, Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có. Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc. Trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều. Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng. Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chỉ là một dân tộc có độc lập và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi, tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có. Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc được ánh sáng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì: Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã. Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để xây đắp lên. Nếu như toàn bộ bài Cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn còn ngời sáng đến muôn đời.

8 tháng 1

ít mà mik còn nhiều hơn

8 tháng 1

Olm chào em, áp lực là điều thường xuyên xảy ra trong cuộc sống, nó không tránh bất cứ ai. Vì vậy, em cần làm quen với nó và thích nghi với áp lực, để có thể vượt qua một cách dễ dàng bằng cách sắp xếp thời gian khoa học và hợp lí cho bản thân.

Khi có một lộ trình khoa học và hợp lí em sẽ có thời gian để được nghỉ ngơi, thư giãn. Việc này giúp em có một sức khỏe tốt và một tinh thần lạc quan. Cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm.

hắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta. Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi. Mở đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài Cáo: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt: Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương, Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có. Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc. Trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều. Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng. Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chỉ là một dân tộc có độc lập và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi, tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có. Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc được ánh sáng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì: Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã. Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để xây đắp lên. Nếu như toàn bộ bài Cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn còn ngời sáng đến muôn đời.


8 tháng 1

Một lần, khi em đang chuẩn bị đi học về, trời bỗng dưng mưa to, gió thổi mạnh. Bố em đã lái xe đưa em đi học từ sáng, nhưng khi đến giờ tan học, chiếc xe bất ngờ bị hỏng giữa đường. Cả hai bố con phải dừng lại ven đường, trong lúc mưa rơi như trút nước xuống. Bố cố gắng kiểm tra xe nhưng không thể sửa được. Em cảm thấy lo lắng, nhưng bố không hề tỏ ra bực bội. Bố bảo em đứng vào bên trong một mái hiên gần đó, còn bố đứng dưới mưa để đợi người sửa xe. Mưa vẫn rơi không ngừng, nhưng bố vẫn cố gắng giữ cho em không bị lạnh. Sau một lúc, chiếc xe được sửa xong, và chúng em lại tiếp tục hành trình về nhà. Dù bị ướt và mệt mỏi, nhưng em cảm thấy rất ấm áp vì tình yêu thương và sự kiên nhẫn của bố. Đó là một kỷ niệm đáng nhớ trong lòng em, vì nó không chỉ là một lần đi dưới mưa, mà còn là một bài học về sự kiên cường và tình yêu thương của cha dành cho con.

8 tháng 1

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!