Viết một đoạn văn nội dung tự chọn sử dụng từ ghép, từ láy
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bài 1:
Ca dao - dân ca là ''tiếng hát đi từ trái tim lên miệng'', là thơ ca trữ tình dân gian. Ca dao - dân ca Việt Nam là cây đàn muôn điệu của tâm hồn nhân dân, nhất là những người lao động Việt Nam. Rất tự nhiên, tâm hồn, tình cảm con người bao giờ cũng bắt đầu từ tình cảm, ân nghĩa đối với những người ruột thịt trong gđ. Bài ca tình nghĩa gđ trog kho tàg ca dao - dân ca VN vô cùng phog phú. Trog đó, 4 bài ca dao của văn bản Những câu hát về tình cảm gđ là tiêu biểu, vừa sâu sắc về nội dung, vừa sinh động, tinh tế về ngôn ngữ nghệ thuật.
- Công cha như núi ngất trời...
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau...
- Ngó lên nuộc lạt mái nhà...
- Anh em nào phk người xa...
Lời của những bài ca dao trên là lời của ai, nói với ai thế? Qua âm điệu, ý nghĩa các từ ngữ & h/ả các nhân vật trữ tìh của nh~ chùm ca dao, chúg ta hiểu rằng : đây là lời ru con của mẹ, nói vs con ; là lời ng` con gái lấy chồng xa quê hướng về quê mẹ, nói với mẹ ; là lời của cháu nói vs ôg và cuối cùng, ở bài 4 thì lời nói nghĩa tình ngân lên một khúc hát nhiều bè, có thể là lời của ôg bà, hoặc cô bác nói vs cháu, của cha mẹ răn bảo con, hoặc của ae ruột thịt tâm sự, bảo ban nhau. Nh~ câu hát về t/c gđ trog ca dao - dân ca VN chúg ta đẹp như 1 bản hợp ca vừa chân thành, thân mật, ấm cúng, vừa thiêng liêng, trang trọng, xuyên thấm từ đời này sang đời khác.
Trog 4 bài ca dao trên, có lẽ lay động sâu sắc tâm hồn trí tuệ chúng ta nhất là bài 1 và bài 4.
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộg mênh môg
Cù lao 9 chữ ghi lòg con ơi!
Sáu tiêng mở đâu ngân theo ba nhịp như khúc dạo nhẹ nhàng, thủ thỉ của một bài hát ru. Đây là lời ru của mẹ, ru cho đứa con thơ bé ngủ ngon, đồng thời nhắc nhở công lao trời biển của cha mẹ đối vs con và bổn fận, trách nhiệm của con cai đối vs cha mẹ. Mẹ sinh ra con, dành tất cả những dòng sữa thơm ngọt nuôi phần xác của con và hằng đêm cất tiếng ru êm dịu rót thêm những dòng sữa âm thanh nuôi lớn fần hồn của con. Là nh~ ng` con, mỗi chúg ta ai mà chẳng đã từng được nghe lời ru của mẹ để rồi cùng vs sữa mẹ, nh~ bài hát ru ấy đã nuôi lớn chúng ta, hoàn thiện cho ta nh~ bước trưởng thành cả tâm hồn và thể xác. Ở bài hát ru này, người mẹ đã ví công lao sinh thành, nuôi dạy của cha mẹ đối với con cái cao như''núi ngất trời'', rộng như''nước biển Đông''. Đây là cách nói ví quen thuộc của ca dao VN để ca ngợi công ơn cha mẹ đối vs con cái . ''Công cha'', ''nghĩa mẹ'', ''biển rộng'', biểu tượng cho sự vĩnh hằng bất diệt của thiên nhiên. Những hình ảnh ấy đc miêu tả bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ (Núi: ngất trời, núi rất cao, ngọn lẫn trog mây trời. Biển: mệnh mông, biển rộng ko sao đog đếm được). Một h/ả vẽ chiều đứng, hài hòa vs h/ả vẽ chiều ngang dựng 1 ko gian bát ngát, mêng mag, rất gợi cảm. Thêm nx, hai từ''núi''&''biển''được nhắc lại 2 lần(điệp từ) bổ sung thêm nét trùng điệp, nối tiếp của núi, của biển khiến cho chiều cao của núi càng thêm cao, chiều rộng của biển càng thêm rộng...Chỉ những hình ảnh to lớn, cao rộng k cùng và vĩnh hằng ấy ms diễn tả nổi công ơn sinh thành, nuôi dạy con cái của cha mẹ. ''Núi ngất trời'', ''biển mênh mông'' k thể nào đo đc, cx như côg ơn cha mẹ đối vs con cái k thể nào tính đc. Qua nghệ thuật so sánh, dùng từ đặc tả, từ láy và điệp từ, kết hợp giọng thơ lục bát ngọt ngào của điệu hát ru, ba câu trên của bài ca dao đã khẳng định và ngợi ca công ơn to lớn của cha mẹ đới vs con cái. Đây k phk lak lời giáo huấn khô khan về chữ hiếu mà lak nh~ tiếng nói tâm tình truyền cảm, lay động trái tim chúng ta.
Do đó, đến câu cuối'' Cù lao chín chữ ghi lòg con ơi!'' tuy lời ru chỉ rõ công ơn cha mẹ bằng 1 thành ngữ''chín chữ cù lao'' hơi khó hiểu, nhưng chúng ta vx thấm thía nh~ tình nghĩa của cha mẹ đối vs con cái. Có thể nói, công ơn cha mẹ đối vs con cái k chỉ gói lại ở con số 9 (sinh: đẻ, cúc: nâng đỡ, phủ: vuốt ve, súc:cho bú, trưởng: nuôi lớn, dục:dạy dỗ, cố:trôg nom, phục:theo dõi, phuc:che chở) mà mở rộng đến vô cùng. Câu thơ 8 tiếng chia đều hai nhịp: bốn tiếng đầu''cù lao chín chữ''nhấn mạnh công ơn cha mẹ, bốn tiếng sau''ghi lòg con ơi'' nhắc nhở thái độ và hành động của con cái đến đáp công ơn ấy.
Về mặt bố cục và mạch lạc văn bản, bài hát ru này khá chặt chẽ. Nhiều bài ca dao khác của dân tộc ta cx thường bố cục tương tự : miêu tả sự vật, kể sự việc, rồi nhắc nhở, răn dạy ; nội dung hiện thực, hài hòa nội dung giáo huấn ; lay động người nghe bằng tình cảm, sau đó ms nhắc nhở= lý trí, ý thức.
Ngoài bài ca dao mà sgk gt, nhìu ng~ VN còn nhớ 1 số bài khác có nội dung tương tự như:
'' Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang''
Hoặc bài:
''Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trog nguồn chảy ra...''
Cùng vs bài hát ru về công cha, nghĩa mẹ, cha ông ta cx thường hát ru con cháu về t/c ae thân thương ruột thịt. Bài ca dao số 4 là lời răn dạy về t/c ấy. Bài ca này cx có cách bố cục gần giống bài số 1
Phần thứ nhất: người ru, người hát vừa kể vừa tả quan hệ ae 1 nhà:
'' Ae nào phk ng` xa
Cùng chung bác mẹ 1 nhà cùng thân''
Quan hệ ae khác biệt rõ ràng vs quan hệ láng giềng, xã hội. Lời ca dùng phép đối chiếu, dùng hai tiếng''người xa'' mở đầu mang âm điệu bình thản như vô cảm, rồi đối lại= 1 dòng tám tiếng liền mạch'' Cùng chung bác mẹ 1 nhà cùng thân'', nghe vừa như thân mật, tha thiết vừa thiêng liêng trang trọng. Những hình ảnh ''bác''(cha),''mẹ'', ''một nhà'' kết hợp các từ 'cùng'', vừa nhấn mạnh quan hệ ae, thân thương, ruột thịt. Lời ca nhẹ nhàng, tự nhiên. Ý nghĩa, nội dung cx nhẹ nhàng, tự nhiên mà khơi gợi biết bao t/c thấm thía.
Phần tiếp sau là lời răn bảo cụ thể
'' Yêu nhau như thể tay chân
Ae hòa thuận, 2 thân vui vầy''
Lời răn bảo dùng cách so sánh khéo léo. Tình ae, yêu thương, hòa thuận, trên kính dưới nhường như tay gắn bó vs chân, sự gắn bó bằng đường gân, mạch máu. Đây cx là cách dùng 1 ý niệm trừu tượng''tình thương yêu''đối chiếu, so sánh với h/ả cụ thể''tay, chân''', mở ra trog suy nghĩ người nghe nhiều liên tưởng, tưởng tượng rộng và sâu. Nói khác đi, ông bà, cha mẹ chúng ta luôn mong muốn ae trog 1 nhà thương nhau nồng thắm, bền chắc = máu thịt, hòa thuận, júp đỡ nhau như sự hài hòa gắn bó của ta vs chân trog 1 cơ thể. Cái cơ thể ấy chính là gđ. người tiêu biểu cho gđ chính là cha mẹ. Tình cảm ae nằm trog tình yêu thương của cha mẹ. Vì thế ae hòa thuận sẽ đem lại niềm vui, hạnh phúc cho cha mẹ. ''Ae hòa thuận, hai thân vui vầy''. Lời ca kết lại, nhưng cảm xúc và ước vọng vx tiếp tục mở ra. Những từ ghép''yêu nhau'', ''hòa thuận'',''vui vầy'' thuộc nhóm từ biểu cảm cứ ngân lên, lan tỏa mãi trog lòg người.
Có thể nói ca dao - dân ca là ''tiếng hát đi từ trái tim lên miệng''. Trog những''tiếng hát trái tim'' ấy, những lời ru, những bài ca về tình nghĩa gđ bao h cx dịu dàng, chân thành, đằm thắm nhất. Từ tình cảm cha mẹ, con cái, tình ae đến tình cảm ôg bà, con cháu, tình ruột thịt, huyết thống...tất cả đều đáng trân trọng và cần phk vun trồng mãi mãi tươi tốt. '' Một giọt máu đào hơn ao nước lã'', tục ngữ xưa cx từng đúc kết kinh nghiệm ứng xử như thế. Song đạo lý VN lại luôn nhắc nhở''tình''phk gắn liền vs''nghĩa''. Tình yêu thương, lòg nhớ ơn cha mẹ, ôg bà, tình thân đoàn kết ae ruột thịt chỉ có gtrị khi con người biết làm những việc nhân nghĩa, có những hành động cụ thể thiết thực đền ơn, đáp nghĩa những bậc sinh thành, những người gần gũi ruột thịt từng hy sinh cả cuộc đời cho sự sốg của mình. Và thiêng liêng cao cả hơn nx là có thực hiện đc tình nghĩa gđ tốt đẹp thì chúng ta mới rèn giũa đc những tình cảm rộng lớn khác như tình yêu quê hương, đất nước, tình đồng bào, lòng nhân ái, tình thương, khoan hòa giữa người vs người...
-
thích ngôn tình :D thích truyện
lên truyenqq.com
note : đam mỹ nhiều lắm :D Be careful
Kho tàng văn học dân gian Việt Nam luôn là dòng sữa mát lành nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Cùng với các thể loại khác, ra đời trong xã hội cũ, ca dao diễn tả tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân trong các mối quan hệ lứa đôi, gia đình, quê hương, đất nước... không chỉ là lời ca yêu thương tình nghĩa, ca dao còn là tiếng hát than thân cất lên từ cuộc đời xót xa, cay đắng của người Việt Nam, đặc biệt là của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn bị coi nhẹ, rẻ rúng, họ không được quyền quyết định trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Tư tưởng "trọng nam khinh nữ" đã chà đạp lên quyền sống của họ, đàn ông được coi trọng, được quyền "năm thê bảy thiếp", được nắm quyền hành trong xã hội, trong khi đó phụ nữ chỉ là những cái bóng mờ nhạt, không được coi trọng. Họ phải làm lụng, vất vả cung phụng chồng con, một nắng hai sương mà cuộc đời thì tăm tối. Họ phải cất lên tiếng nói của lòng mình.
"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"
Tiếng nói đầy mặc cảm, cay đắng. Người phụ nữ ví mình như một tấm lụa được người ta bày bán giữa chợ. Thân phận họ cũng chỉ là vật giữa chợ đời bao người mua. Thân phận họ bé nhỏ và đáng thương quá đỗi. Hai từ "thân em" cất lên sao xót xa, tội nghiệp. Xã hội lúc bấy giờ đâu cho họ được tự do lựa chọn, ngay từ lúc sinh ra, được là người họ đã bị xã hội định đoạt, bị cha mẹ gả bán, họ không có sự lựa chọn nào khác:
"Thân em như con cá rô thia
Ra sông mắc lưới vào đìa mắc câu"
Không một lối thoát nào mở ra trước mắt, họ cảm thấy cuộc đời chỉ là kiếp nô lệ, bốn phía lưới giăng. Hình ảnh "Tấm lụa đào", hay "con cá rô thia" trong hai câu ca dao trên là hình ảnh so sánh nghệ thuật. Hình ảnh này cho ta liên tưởng tới sự tầm thường, bé nhỏ của thân phận người phụ nữ: tấm lụa thì đem ra đổi bán, con cá rô thia thì được vùng vẫy đây nhưng chỉ trong chiếc ao tù. Hình ảnh con cá rô thia cho ta nghĩ đến người phụ nữ trong sự bủa vây của truyền thống, tập tạc, quan niệm phong kiến bao đời hà khắc, đến hạnh phúc của mình cũng không được quyền quyết định:
"Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa
Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời,
Em với anh cũng muốn kết tóc ở đời,
Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan"...
Bao khát khao bị kìm hãm, hạnh phúc lứa đôi bị rào cản phong tục đè nén, họ ngẫm mình và cất lên tiếng than cay đắng.
"Thân em như miếng cau khô
Người thanh chuộng mỏng, người khô tham dày"
Câu ca dao nào cũng đầy ai oán, số phận nào cũng được ví bằng những thứ bé nhỏ, tầm thường, đó là sự ý thức, sự phản kháng của những con người triền miên bất hạnh. Họ có quyền được sống, được tự do yêu đương, nhưng xã hội đã chà đạp lên quyền của họ, chỉ cho họ một cuộc đời lầm lũi, chua cay.
"Năm nay em đi làm dâu
Thân khác gì trâu mang theo ách
Năm nay em đi làm vợ
Thân mang cày, dây khiến không biết ai?
Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm."
Người con gái trong bài ca dao H'mông này đang than thân trách phận mình khi "xuất giá tòng phu''. Họ lấy chồng, không phải vì hạnh phúc mà để làm một con vật lao động trong nhà chồng, một con vật suốt đời "theo ách" như trâu mang. Cuộc sống như khép lại trước mắt họ, chỉ thấy một sự trói buộc đến phũ phàng:
"Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra"
Có khi họ bị chồng đánh đập:
"Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai"
Có khi bị chồng phụ bạc:
"Nhớ xưa anh bủng anh beo
Tay bưng chén thuốc lại đèo múi chanh
Bây giờ anh mạnh anh lành
Anh tham duyên mới anh đành phụ tôi."
Ở lĩnh vực nào người phụ nữ xưa cũng không được quyền hạnh phúc. Cuộc sống không có tự do, tình yêu không được công nhận, hôn nhân không được định đoạt, quan hệ vợ chồng không được tôn trọng... Ở mặt nào họ cũng bị vùi dập xô đẩy, cũng không được quyền lên tiếng lựa chọn. Đến cả sự tỏ bày tình yêu cũng vô cùng tội nghiệp.
"Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Không tin bóc vỏ mà xem
Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi''
Ở câu than thân nào họ cũng ví mình thật tội nghiệp, nào là tấm lụa, nào là hạt mưa, nào là miếng cau khô, rồi củ ấu gai... thứ nào cũng nhỏ nhoi, tội nghiệp. Hạt mưa thì chẳng biết rơi vào đâu, miếng cau thì tùy người chọn, còn củ ấu thì có vẻ đẹp bên trong mà không ai biết. Bài ca dao này là một sự giãi bày của người phụ nữ. Người phụ nữ muốn xã hội công nhận giá trị của mình, nhưng vẫn đầy tự ti: "Không tin bóc vỏ mà xem, ăn rồi mới biết là em ngọt bùi". Một sự mời mọc ngập ngừng.
Có thể nói, những bài ca dao than thân trách phận không chỉ là lời than thở vì cuộc đời, cảnh ngộ khổ cực, đắng cay, mà còn là tiếng nói phản kháng, tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Cơ sở kinh tế:
- Sản xuất nông nghiệp:
+ Cư dân ở phương Đông và cả phương Tây đều sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, kết hợp với chăn nuôi và một số nghề thủ công.
+ Sản xuất nông nghiệp bị bó hẹp, đóng kín trong các công xã nông thôn (như ở phương Đông), hay trong các lãnh địa phong kiến (như ở châu Âu) với kĩ thuật canh tác lạc hậu.
+ Ruộng đất chủ yếu nằm trong tay địa chủ hay lãnh chúa. Họ lại giao cho những người nông dân lĩnh canh hoặc nông nô cày cấy rồi thu tô, thuế.
- Ở châu Âu, từ sau thế kỉ XI, thành thị trung đại xuất hiện, nền kinh tế công, thương nghiệp ngày càng phát triển. => Đó chính là một nhân tố mới, dần dần dẫn tới sự khủng hoảng của xã hội phong kiến và hình thành chủ nghĩa tư bản ở châu Âu
- Cơ sở kinh tế của xã hội phong kiến là nông nghiệp, kết hợp với chăn nuôi và một số nghề thủ công.
- Sản xuất nông nghiệp bị bó hẹp, đóng kín trong các công xã nông thôn (phương Đông), hay trong các lãnh địa phong kiến (phương Tây) với kĩ thuật canh tác lạc hậu.
- Ruộng đất chủ yếu nằm trong tay địa chủ hay lãnh chúa. Họ giao cho những người nông dân lĩnh canh hoặc nông nô cày cấy rồi thu tô, thuế.
- Cơ sở kinh tế của xã hội phong kiến là nông nghiệp, kết hợp với chăn nuôi và một số nghề thủ công.
- Sản xuất nông nghiệp bị bó hẹp, đóng kín trong các công xã nông thôn (phương Đông), hay trong các lãnh địa phong kiến (phương Tây) với kĩ thuật canh tác lạc hậu.
- Ruộng đất chủ yếu nằm trong tay địa chủ hay lãnh chúa. Họ giao cho những người nông dân lĩnh canh hoặc nông nô cày cấy rồi thu tô, thuế.
- Trong xã hội phong kiến có hai giai cấp cơ bản là:
+ Ở phương Đông: địa chủ và nông dân lĩnh canh.
+ Ở phương Tây: lãnh chúa và nông nô.
- Quan hệ giữa các giai cấp: địa chủ và lãnh chúa bóc lột nông dân lĩnh canh và nông nô bằng địa tô. Song địa vị, thân phận của các giai cấp ở mỗi nơi cũng khác nhau:
| . |
Khi mặt trời vừa rút sau những đỉnh núi phía tây, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Nắng ngày hè chỉ còn nhạt nhòa. Thành phố đượm một màu vàng óng. Lúc này đã quá giờ tan tầm, dòng người và xe cộ vẫn ngược xuôi nhưng đã thưa dần. Đường phố bớt ồn ào, nhộn nhịp. Con đường trở nên rộng lớn và thênh thang hơn. Giữa đường, ngăn cách dòng xe xuôi ngược là một bờ tường rào khoảng năm mười phân. Phía trên là hàng rào lan can sắt màu xanh biếc chạy dọc theo con đường. Hai bên vỉa hè, hàng cây si già cỗi, cành sum suê đang trầm tư ngắm chiều tà. Những cây xà cừ đang rung rinh những lá non xanh mượt. Các em nhỏ ríu rít rủ nhau đi chơi sau một ngày học tập. Các bà mẹ chuẩn bị đi chợ nấu cơm chiều
Cảm ơn bn