K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Khi ấy trong kinh hết sức nhốn nháo: người ta kháo nhau rằng quan trấn thủ Sơn Nam sắp đem quân vào thành, để giết hết kiêu binh. Đám quân lính nghe tin ấy đều hoảng hốt, ngầm cho vợ con gói ghém hành lý đem ra ngoài thành và trốn tránh đi các nơi, còn ở kinh chỉ để lại những người thuộc "quân tịch" mà thôi. Rồi chúng kéo nhau vào phủ chúa, xin chúa cấp tốc khởi binh đánh dẹp. Chúa bất...
Đọc tiếp
Khi ấy trong kinh hết sức nhốn nháo: người ta kháo nhau rằng quan trấn thủ Sơn Nam sắp đem quân vào thành, để giết hết kiêu binh. Đám quân lính nghe tin ấy đều hoảng hốt, ngầm cho vợ con gói ghém hành lý đem ra ngoài thành và trốn tránh đi các nơi, còn ở kinh chỉ để lại những người thuộc "quân tịch" mà thôi. Rồi chúng kéo nhau vào phủ chúa, xin chúa cấp tốc khởi binh đánh dẹp. Chúa bất đắc dĩ phải ra ngự ở Trạch các để uý lạo ba quân. Trong đám kiêu binh có kẻ biết mưu của chúa, liền mắng chúa rằng: - Chúa đừng tưởng chúng tôi không biết mà hòng đem đầu lưỡi ra khua múa để che đậy. Từ đây theo cửa Tuyên Vũ đi ra, rồi đến bến Tây Long (tục gọi là Tây Luông, ở thẳng phía sau nhà hát thành phố Hà Nội bây giờ); chẳng qua chỉ độ trăm bước đã có thuyền của quận Thạc chờ đón sẵn sàng ở đó; trông trước trông sau, khi nào thấy không có người, thì bước lên thuyền cho nhanh rồi tìm đường mà đi chứ gì! Chúa biến sắc mặt, nín lặng quay vào. Từ hôm ấy, quân lính canh giữ phủ chúa rất ngặt. Những người nào ra vào, hễ hơi có vẻ khang khác là bị họ khám xét tra hỏi liền. Vì vậy, chúa không dám ra khỏi cung. Quận Thạc nghe tin, lại rút quân về trấn của mình. Chúa sai người ra báo lại với các trấn hoãn ngày khởi sự, nhưng chưa đến kịp thì các đạo theo đúng hẹn cũ đã rầm rộ kéo quân lên đường. Thiên hạ cực kỳ náo động. Hào kiệt các nơi đồng thời nổi dậy, ai ai cũng nói phải tiêu diệt hết kiêu binh. Ngày hôm đó, hết thảy kiêu binh hai xứ Thanh-Nghệ đóng ở các trấn đều phải bỏ trốn, lúc đi qua làng mạc chúng không dám lên tiếng. Hễ kẻ nào buột miệng lòi ra thổ âm Thanh-Nghệ, tức thì bị dân chúng bắt giết ngay. Bọn chúng phải luôn luôn giả cách làm người câm, ăn xin ở dọc đường, rồi lần mò về kinh, báo cho đám kiêu binh ở đây biết cái tin nay mai quân các trấn sẽ về họp ở dưới thành. Được tin này, bọn kiêu binh ở kinh tức thì họp nhau bàn cách chống cự. Rồi họ chia nhau thành các đạo kéo đi. Nhưng đạo phía tây mới kéo ra đến Đại-phùng, đạo phía bắc mới kéo đến cầu Vịnh thì đã bị ngay các tay thổ hào địa phương đánh thua. Họ phải bỏ cả khí giới, cố mang vết thương mà chạy về kinh. Bấy giờ kinh thành chấn động, dân hàng phố kẻ chợ đều dắt díu bồng bế nhau ra ngoài thành chạy trốn. Đám kiêu binh vừa sợ vừa tức, gọi chúa là giặc. Rồi họ kéo vào trong phủ, lấy hết binh khí, chia cho cơ đội các dinh nắm giữ. Phủ chúa lúc ấy không còn một tấc sắt nào để tự vệ. Đêm hôm ấy, kiêu binh bắt được bốn tay nghĩa sĩ lẻn vào thành; họ liền bí mật đem đến hội sở của họ để tra hỏi. Mấy tay nghĩa sĩ đau quá, khai liều rằng đêm nay quân ở ngoài sẽ vào đánh úp. Đám kiêu binh cả sợ, bèn bảo nhau phòng bị nghiêm nhặt. Súng nhồi sẵn mồi lửa, gươm tuốt khỏi vỏ, suốt đêm họ hò hét, đi lại rầm rập, kinh thành hầu như sắp vỡ. Sớm hôm sau, họ đem chém cả bốn nghĩa sĩ, rồi xúm quanh phủ chúa mà trách rằng: - Nhờ có chúng tôi phò, chúa mới được lên ngôi. Nay chúa lại coi chúng tôi là kẻ thù. Lính Thanh-Nghệ hai trăm năm nay vẫn là nanh vuốt cật ruột của nhà chúa. Bây giờ chúa lại nỡ dấy quân bốn trấn về giết hại lính hai xứ chúng tôi. Tin da dẻ mà ngờ cật ruột, giơ dao cưa để cắt nanh vuốt, kẻ nào bày ra mưu ấy đều là những kẻ bỏ thuốc độc cho chúa. Nếu chúa không mau dụ bốn trấn bãi binh, thì đừng có trách chúng tôi là vô lễ! Chúa một mực chối là không biết, rồi ngầm sai người bảo các trấn bãi việc ấy đi. Đám kiêu binh không biết là chúa đã ngầm ra lệnh đình chỉ, nên vẫn còn nghi ngờ. Họ bèn tụ họp nhau, bàn làm chuyện đại nghịch. Hẹn đến canh ba đêm ấy, nổ ba tiếng súng Bảo-long làm hiệu, rồi cùng kéo vào phủ chúa để hành sự; sẽ lấy hết của cải đồ vật trong phủ chia nhau; sau đó lấy xe kiệu của chúa chở hết các đồ nghi vệ cùng sổ sách đưa đến nội điện, rồi rước hoàng thượng về Thanh Hoa để mưu toan công việc sau này. 1) Xác định ngôi kể và điểm nhìn nghệ thuật của đoạn trích. 2) Chỉ ra mâu thuẫn trong đoạn trích. 3) Anh/chị hiểu thế nào về câu nói của đám kiêu binh : "Tin da dẻ mà ngờ cật ruột, giơ dao cưa để cắt nanh vuốt, kẻ nào bày ra mưu ấy đều là những kẻ bỏ thuốc độc cho chúa."? 4) Tìm những chi tiết cho thấy chúa Trịnh Tông bất lực trước đám kiêu binh. 5) Những hành động nào của kiêu binh coi thường đạo quân thần của lễ giáo phong kiến ? 6) Nêu suy nghĩ về hậu quả của chiến tranh phong kiến.
0
Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5.       MỘT TIẾNG RAO ĐÊM       Ai ăn bánh bột lọc không?      Tiếng rao sao mà ướt lạnh tê lòng!      Không phải giọng của một hầu đứng tuổi      Cao thánh thót hay rồ khan gió bụi      Đây âm thanh của một cổ non tơ      Mà giây ngân còn vương vấn dại khờ      Trên môi mỏng hãy thơm mùi sữa mẹ.      Tiếng rao nhỏ của...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. 

     MỘT TIẾNG RAO ĐÊM 

     Ai ăn bánh bột lọc không?
     Tiếng rao sao mà ướt lạnh tê lòng!
     Không phải giọng của một hầu đứng tuổi
     Cao thánh thót hay rồ khan gió bụi
     Đây âm thanh của một cổ non tơ
     Mà giây ngân còn vương vấn dại khờ
     Trên môi mỏng hãy thơm mùi sữa mẹ.
     Tiếng rao nhỏ của một em gái bé
     Không vang lâu, chỉ vừa đủ rao mời
     Mà giọng còn non quá, yếu dần hơi
     Nên cái bánh nửa chừng ra cái bén
     Thôi cũng được, tiếng em vừa ngon đến
     Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồi...

     Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xôi
     Tiếng em bước trên đường đêm nho nhỏ
     Nhưng cũng đủ cho lòng anh lắng rõ.
     Anh thấy em, mình gió thổi nghiêng nghiêng
     Như cây dương liễu nhỏ tóc chưa viền
     Manh áo mỏng che không kín ngực
     Đầu không nón, bụi sương thầm chấm ướt
     Đuôi tóc chuôi chừng bảy tám năm thôi!
     Ấy chân em leo lên bước đường đời
     Ngày tháng đó trong mủng vài chục bánh.
     Gia tài đó, mấy đồng xu mỏng mảnh,
     Biết bao giờ mà sướng được em ơi!
     Có ai thương một com bé giữa trời
     Mà thương nữa, cũng đôi người lơ đễnh
     Kêu em lại, mua cho vài chiếc bánh
     Trả vài xu và thoa má, ngọt ngào
     “Ồ cái con bé nó mới ngoan sao
     Chừng ấy tuổi đã làm ăn bán dạo!”

                                     (Trích Một tiếng rao đêm, Tố Hữu)

Chú thích: Bài thơ được sáng tác tại xà lim Quy Nhơn, vào tháng 11 năm 1941. Tác giả nằm trong nhà giam, nghe tiếng rao đêm của một đứa trẻ mới chỉ 7 - 8 tuổi trong đêm khuya vắng (đứa trẻ này chính là con gái của người bạn tù của Tố Hữu). Trong ông dâng lên nỗi xúc động, nghẹn ngào và tiếng thơ Một tiếng rao đêm ra đời là vì thế.  

Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ. 

Câu 2. Chỉ ra nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình trong bài thơ. 

Câu 3. Xác định và phân tích biện pháp tu từ trong câu thơ sau: Tiếng rao sao mà ướt lạnh tê lòng!

Câu 4. Phát biểu chủ đề và tư tưởng của bài thơ. 

Câu 5. Tác giả gửi gắm thông điệp gì qua bài thơ?

0
Câu 1. (2 điểm)    Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá nhân vật Pê-nê-lốp trong đoạn trích dưới đây. UY-LÍT-XƠ TRỞ VỀ     (Tóm tắt đoạn đầu: Sau hơn hai mươi năm xa cách, trải qua bao nỗi gian lao, Uy-lít-xơ mới được trả tự do, quay trở về với gia đình. Giả dạng làm người hành khất, Uy-lít-xơ đã vào được trong ngôi nhà của mình, được Pê-nê-lốp...
Đọc tiếp

Câu 1. (2 điểm)

   Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá nhân vật Pê-nê-lốp trong đoạn trích dưới đây.

UY-LÍT-XƠ TRỞ VỀ

    (Tóm tắt đoạn đầu: Sau hơn hai mươi năm xa cách, trải qua bao nỗi gian lao, Uy-lít-xơ mới được trả tự do, quay trở về với gia đình. Giả dạng làm người hành khất, Uy-lít-xơ đã vào được trong ngôi nhà của mình, được Pê-nê-lốp cho phép ở lại để kể cho nàng nghe những câu chuyện về chồng nàng mà anh ta biết... Nhũ mẫu Ơ-ri-clê báo cho nàng biết Uy-lít-xơ chồng nàng đã trở về và đã trừng trị bọn cầu hôn quấy nhiễu, gây sức ép cho nàng suốt bấy lâu này. Nhưng Pê-nê-lốp không tin. Nàng đã khéo léo thử thách chồng, để Uy-lít-xơ nói ra điều mà chỉ có nàng, chồng nàng cùng một người thị nữ thân cận biết để kiểm chứng thân phận của người hành khất.)

    Pê-nê-lốp thận trọng đáp:

   - Khốn khổ! Tôi không coi thường, coi khinh ngài, cũng không ngạc nhiên đến rối trí đâu. Tôi biết rất rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, Ơ-ri-clê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường.

    Nàng nói vậy để thử chồng, nhưng Uy-lít-xơ bỗng giật mình nói với người vợ thận trọng:

    - Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này. Nếu thần linh muốn xê dịch đi thì dễ thôi, nhưng người trần dù đang sức thanh niên cũng khó lòng lay chuyển được nó. Đây là một chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai. Nguyên trong sân nhà có một cây ô-liu lá dài; nó mọc lên, khoẻ, xanh tốt và to như cái cột. Tôi kẻ vạch gian phòng của vợ chồng mình quanh cây ô-liu ấy, rồi xây lên với đá tảng đặt thật khít nhau. Tôi lợp kĩ gian phòng, rồi lắp những cánh cửa bằng gỗ liền, đóng rất chắc. Sau đó tôi chặt hết cành lá của cây ô-liu lá dài, cố đẽo thân cây từ gốc cho thật vuông vắn rồi nảy đường mực, làm thành một cái chân giường và lấy khoan khoan lỗ khắp xung quanh. Tôi bào tất cả các bộ phận đặt trên chân giường đó, lấy vàng bạc và ngà nạm vào trang trí, và cuối cùng tôi căng lên mặt giường một tấm da màu đỏ rất đẹp. Đó là điểm đặc biệt mà tôi vừa nói với nàng. Nhưng nàng ơi, tôi muốn biết cái giường ấy hiện còn ở nguyên chỗ cũ, hay đã có người chặt gốc cây ô-liu mà dời nó đi nơi khác. 

    Người nói vậy, và Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay, nàng thấy Uy-lít-xơ tả đúng mười mươi sự thật. Nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng và nói: 

    - Uy-lít-xơ! Xin chàng chớ giận thiếp, vì xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan. Ôi! Thần linh đã dành cho hai ta một số phận xiết bao cay đắng vì người ghen ghét ta, không muốn cho ta được sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà thiếp không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác... Giờ đây, chàng đã đưa ra những chứng cớ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp và Ác-tô-rít, một người thị tì của cha thiếp cho khi thiếp về đây... Vì vậy chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi. 

    Nàng nói vậy, khiến Uy-lít-xơ càng thêm muốn khóc. Người ôm lấy người vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình mà khóc dầm dề. [...] Pê-nê-lốp cũng vậy, được gặp lại chồng, nàng sung sướng xiết bao, nàng nhìn chồng không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời.

(Hô-me-rơ, Ô-đi-xê, theo bản dịch của Phan Thị Miến, NXB Văn học, Hà Nội, 1983)

Câu 2. (4 điểm)

  Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày quan điểm của anh/ chị về vấn đề sử dụng AI và việc phát triển bản thân. 

0
Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. TRUYỆN NGƯ TINH     Ở ngoài biển Đông có con cá đã thành tinh, mình như rắn dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như rết, biến hóa thiên hình vạn trạng, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa bão, lại ăn thịt người nên ai cũng sợ...     Có hòn đá Ngư tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, ở dưới đá có hang, cá tinh sống...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5.

TRUYỆN NGƯ TINH

    Ở ngoài biển Đông có con cá đã thành tinh, mình như rắn dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như rết, biến hóa thiên hình vạn trạng, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa bão, lại ăn thịt người nên ai cũng sợ...

    Có hòn đá Ngư tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, ở dưới đá có hang, cá tinh sống ở trong đó. Thuyền dân đi qua chỗ này thường hay bị cá tỉnh làm hại. Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở đường đi khác nhưng đá rắn chắc khó đẽo. Một đêm, có tiên đến đục đá làm cảng để cho người đi dễ dàng qua lại. Cảng sắp làm xong, cá tinh bèn hóa làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng ngỡ rằng đã rạng đông nên cùng bay lên trời (nay gọi là cảng Phật Đào). Long Quân thương dân bị hại, bèn hóa phép thành một chiếc thuyền lớn, hạ lệnh cho quỷ Dạ Xoa ở dưới thủy phủ cấm thần biển không được nổi sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá, cá tỉnh, thần giả vờ cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Cá tinh há miệng định nuốt, Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Cá tinh chồm lên quẫy mình quật vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ, còn cái đầu trôi ra ngoài bể biến thành con chó. Long Quân bèn lấy đá ngăn bể rồi chém nó. Nó biến thành cái đầu chó, nay gọi là Núi Đầu Chó (Cẩu Đầu Sơn), còn thân mình trôi ra ngoài Mạn Cầu, chỗ đó nay gọi là Cẩu Mạn Cầu.

(Trích Lĩnh Nam Chích Quái)

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản.

Câu 2. Tìm câu văn mô tả ngoại hình của Ngư tinh. 

Câu 3. Chỉ ra một chi tiết kì ảo có trong văn bản và nêu tác dụng của chi tiết kì ảo đó. 

Câu 4. Việc Long Quân diệt trừ Ngư tinh thể hiện khát vọng nào của con người thuở sơ khai?

Câu 5. Việc lồng ghép những địa danh có thật trong tác phẩm có tác dụng gì? 

0