K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 11 2021

Hai bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương và Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan đều là thể loại thơ thất ngôn bát cú, tuân thủ nghiêm chỉnh luật đối. Cả hai bài đều là những dòng tâm trạng, những nỗi niềm của nhân vật trữ tình, nhẹ nhàng mà sâu lắng.Đó là nỗi buồn về tình duyên lỡ làng của Hồ Xuân Hương và nỗi nhớ thương quê hương của Bà Huyện Thanh Quan.

Tuy nhiên, giữa hai bài thơ có sự khác nhau về ngôn ngữ, cách dùng từ. Bài thơ của Hồ Xuân Hương dùng nhiều từ ngữ trong ngôn ngữ hàng ngày như: tiếng gà văng vẳng, mõ thảm, chuông sầu, những tiềng rền rĩ, khắp mọi chòm…; kể cả những từ ngữ rất khó dùng như: cớ sao om, duyên mõm mòn, già tom. Trong bài chỉ có một câu nhiều từ Hán Việt là: Tài tử văn nhân ai đó tá?. Trong khi bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại dùng rất nhiều từ Hán Việt: hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, cô thôn, lữ thứ, hàn ôn… nhiều từ ngữ mang tính ước lệ, được dùng nhiều trong thơ cổ như : ngàn mai, dặm liễu. Mặc dù vậy, ngôn ngữ của hai người vẫn có những nét tương đồng đó là những chi tiết mang đậm những nét dân tộc, nó mang một âm điệu nhẹ nhàng và cũng tạo nên cho tác giả những chi tiết đặc sắc và hình ảnh được sử dụng cũng ngày càng phong phú hơn.

Chính những sự khác nhau trên đã tạo ra sự khác nhau về phong cách: Đó chính là bài thơ của Hồ Xuân Hương có phong cách, có xu hướng gần gũi với đám đông hơn. Trong khi đó bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan thì nhã nhặn, đài các, sang trọng nó thể hiện tiếng nói của văn nhân trí thức thượng lưu. 

Hai bài thơ là hai tâm trạng của hai con người về những nỗi niềm riêng, chứa đựng những tình cảm sâu sắc của họ. Với phong cách sử dụng ngôn ngữ hay và độc đáo cả hai bài thơ đều là những bài thơ hay, độc đáo và nói lên được tâm trạng của biết bao con người. 

Trang chủ Văn Mẫu Lớp 11

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ (THẠCH LAM)

Hướng dẫn phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam), lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và tham khảo một số bài văn mẫu tuyển chọn hay.

MỤC LỤC NỘI DUNG

  • 1. Hướng dẫn phân tích
  • 1.1. Phân tích đề
  • 1.2. Hệ thống luận điểm
  • 1.3. Lập dàn ý chi tiết
  • 1.4. Sơ đồ tư duy
  • 2. Văn mẫu tham khảo
  • 2.1. mẫu số 1
  • 2.2. mẫu số 2
  • 2.3. mẫu số 3

Tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật Liên do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn gồm những gợi ý cách làm và lập dàn ý chi tiết kèm một số bài văn mẫu hay phân tích hình ảnh nhân vật Liên trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam).

HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LIÊN TRONG HAI ĐỨA TRẺ

Đề bài: Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

1. PHÂN TÍCH ĐỀ

- Yêu cầu của đề bài: phân tích nhân vật Liên (Hai đứa trẻ).

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : những câu văn, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

- Phương pháp lập luận chính : phân tích.

2. HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM

Luận điểm 1: Giới thiệu hoàn cảnh sống của Liên

Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn Liên.

3. LẬP DÀN Ý CHI TIẾT

a) Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Thạch Lam là một cây bút của nhóm Tự lực văn đoàn nổi tiếng với phong cách viết văn lãng mạn, giọng văn giàu chất thơ, nhưng không hề ủy mị.

Hai đứa trẻ là tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam kể về cuộc sống của một huyện nghèo và mong ước của những đứa trẻ.

- Khái quát về nhân vật Liên: là một đứa trẻ hồn nhiên nhưng có ước mơ to lớn, suy nghĩ chín chắn.

b) Thân bài

Luận điểm 1: Giới thiệu hoàn cảnh sống của Liên

- Liên từng sống với gia đình mình ở Hà Nội.

- Cha mất việc, gia đình Liên phải chuyển về sống nơi phố huyện nghèo, tương lai mù mịt.

- Liên và em Liên trông một cửa hàng tạp hóa nhỏ, không bán được bao nhiêu

- Tối nào hai chị em Liên cũng phải ngồi trông quán đến tối mịt.

=> Cuộc sống vất vả, khó khăn, sa sút, mức sống eo hẹp.

Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn Liên.

* Liên – cô bé có tâm hồn nhạy cảm, yêu quê hương và giàu lòng trắc ẩn

- Cô bé có tâm hồn nhạy cảm, yêu quê hương:

+ Cảm nhận bức tranh phố huyện lúc chiều tàn với hình ảnh, âm thanh, đường nét, màu sắc : Tiếng trống thu không, “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “tiếng ếch nhái kêu ran”,…

-> Cảm nhận bức họa đồng quê quen thuộc, bình dị, thơ mộng, gợi cảm, mang cốt cách Việt Nam.

+ Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này” từ tâm hồn nhạy cảm

-> Tâm hồn nhạy cảm và lòng yêu quê hương

=> Tâm hồn Liên đã có những cảm nhận hết sức tinh tế trước những thời điểm khác nhau trong ngày.

- Cô bé giàu lòng trắc ẩn

+ Xót thương cho những kiếp người nhỏ bé nơi phố huyện nghèo:

+ Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

  • Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.
  • Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu
  • Xót thương bà cụ Thi điên

-> Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình.

* Liên – cô bé có niềm hi vọng và ước mong vào tương lai tốt đẹp hơn cho cuộc sống nghèo nàn buồn tẻ nơi phố huyện nghèo

- Hàng ngày Liên chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua - chuyến tàu mang theo ước mơ của Liên.

- Tâm hồn luôn hướng về ánh sáng

+ Trong màn đêm em luôn tìm một ánh sáng từ một nơi xa

+ Liên ngước lên trời tìm những vì sao sáng

+ Liên còn tìm ánh sáng với những ngọn đèn

+ Tâm hồn em như một mầm cây khỏe khoắn luôn hướng về nơi có ánh sáng.

- Hướng tới tương lai

+ Trước khi tàu đến

  • Liên cùng em trai dù đã rất buồn ngủ nhưng vẫn cố thức để đợi tàu: Cô thức vì muốn được nhìn thấy chuyến tàu như một hoạt động cuối cùng của đêm khuya
  • Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu
  • Tiếng Liên gọi em một cách cuống quýt, giục giã như thể nếu chậm một chút sẽ mất đi điều gì đó quý giá

-> Liên cố thức đợi chuyến tàu mục đích chính không phải để bán hàng mà là để được nhìn thấy một cuộc sống náo động, một nguồn sáng rực rỡ hơn.

+ Khi tàu đến

  • Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vượt qua
  • Dù chỉ trong chốc lát, Liên cũng thấy “những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh” -> thế giới khác với cuộc sống thường ngày của chị.
  • Trong tâm hồn cô bé, cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống
  • Liên mơ tưởng về Hà Nội, một Hà Nội sáng rực và xa xăm, đẹp, giàu sang và sung sướng... -> Tiếc nuối và ngán ngẩm cho cuộc sống hiện tại.

=> Con tàu như một cuộc sống khác, một thế giới khác. Cô bé đón tàu với tất cả niềm hân hoan và vui sướng.

+ Khi tàu đi

  • Như bao con người khác, Liên cũng “mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống hằng ngày”
  • Khi tàu đi qua, Liên trở về với tâm trạng buồn như cuộc sống thường ngày nơi phố huyện

=> Tâm trạng nuối tiếc, niềm suy tư thao thức về cuộc sống hằng ngày nơi phố huyện nghèo.

c) Kết bài

- Khái quát vẻ đẹp của nhân vật Liên

- Cảm nhận của em về nhân vật.

  “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”

Nhận định của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thiên chức của văn chương chính là tấm gương phản ánh trung thành hiện thực cuộc sống khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dù được sáng tác bằng bất cứ thể loại nào và trong bất cứ thời đại nào, ngòi bút của các nhà văn luôn hướng đến cuộc sống với tất cả những nỗi niềm, dù là vui tươi yêu đời hay đau khổ đến phẫn uất của con người. Đây cũng chính là mảnh đất cội nguồn màu mỡ đã được các nhà văn đào sâu và khai phá tự muôn thuở của văn chương.

Thế nhưng, cũng nằm trong quan điểm đó, các sáng tác của Thạch Lam lại mang một dấu ấn rất riêng với bút pháp vừa hiện thực lại vừa trữ tình mà tiêu biểu hơn cả chính là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Qua không gian một phố huyện nghèo xác xơ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Thạch Lam đã khắc họa nên những nét đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên-một cô bé hồn nhiên, đáng yêu, giàu tình người và những khát khao thầm kín.

Bằng những nét phác thảo cơ bản nhưng rất đậm sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp trong tính cách của Liên. Đó là hiện thân của một cô bé giàu lòng nhân hậu và tình yêu thương những cảnh đời khốn khó. Tận sâu trong trái tim non nớt của Liên là sự rung cảm dạt dào và xót xa trước những kiếp người nghèo khổ. Bày lên trước mắt Liên là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa” còn sót lại sau khi đã vãn chợ chiều. Đó cũng là hình ảnh đầy đau xót của mẹ con chị Tí, bác Siêu và gia đình bác xẩm với gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền trên vai đã chẳng bao giờ có thể thoát khỏi vòng đời nghèo khó quanh quẩn.Liên trông thấy tất cả những con người ấy trong một buổi chiều buồn ảm đạm nơi phố huyện nghèo xơ xác. Trong lòng Liên trào dâng một “lòng thương” vô hạn, một nỗi niềm xót xa không gì tả xiết. Bởi lẽ, những cảnh đời khốn khó ấy cũng không ngoại trừ gia đình Liên ra khỏi vòng tay oan nghiệt của nó khi mà với gánh nặng vật chất đang đè nén, họ đã bị xé lẻ đến nghiệt ngả. Từ nỗi buồn đơn sơ trước thời khắc của ngày tàn, Liên đã hướng nỗi buồn của mình sang những người dân nghèo nơi phố huyện cũng như đồng cảm với những cảnh đời lam lũ cơ cực. Trái tim Liên đã hòa chung nhịp đập với con người ở phố huyện-một nhịp đập sâu lắng, nhẹ nhàng mà uất nghẹn khôn nguôi. Để rồi những tình cảm ấy sẽ được phân chất thành một nỗi u sầu đậm đặc trong tâm hồn Liên. Liên thương người là thế, đau xót cho những kiếp khổ triền miên là thế mà cũng đành phải lẳng lặng làm thinh để cho tình thương chôn chặt nơi đáy mắt không thể bật lên thành những hành động cao đẹp. Nỗi đời cơ cực đã chạm những nanh vuốt sắc lạnh của nó đến bên gia đình Liên, đến bên tâm hồn ngây thơ giàu tình cảm của Liên. Tâm hồn ấy mãi cũng chỉ có thể là tiếng khóc thương thầm lặng cho những kiếp người lầm than-một tiếng khóc buồn trong bế tắc khi mà “chính chị cũng không có tiền để cho” những đứa trẻ ấy một chút niềm an ủi mỏng manh. Nhưng cũng chính từ trong bế tắc, tuyệt vọng, tấm lòng của Liên lại hiện lên trước mắt chúng ta vớiđđầy đủ vẻ đẹp của một viên ngọc ngời tỏa. Không những thế, viên ngọc ấy còn như được phủ lên một lớp men đẹp dịu bởi tình thương yêu em và tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ của Liên. Liên không quãng đêm khuya nhọc mệt bủa vây xug quanh mình, vẫn chịu khó cùng An trông hàng giúp mẹ. Mắt Liên đã nặng trĩu sau một ngày dài với bao lo toan, mệt mỏi. Thế nhưng với một tình thương cha, tình yêu mẹ cùng sự cảm thông sâu sắc trước những khó khăn của cha mẹ, Liên vẫn âm thầm làm việc từ ngày này sang ngày khác.Đôi mắt ấy đã mở bừng trong những tình thương dào dạt đối với cha mẹ, với An và đối với tất cả những cảnh đời lay lắt nơi phố huyện. Tình cảm ấy sâu rộng, bao la tựa hồ như một dòng nước suối chảy tràn trong tâm hồn Liên, như làn gió mát dịu vút bay phủ trùm cả phố huyện. Nhẹ nhàng và êm ái, tình cảm của Liên đã đan đầy cả không gian u tối, bộc lộ nên một tính cách đẹp soi rọi cả màn đêm mờ mịt…

Nhưng nếu chỉ xét đến tính cách của Liên thôi thì quả là một sự thiếu xót to lớn khi mà tâm hồn chị vẫn rạng ngời một nét đẹp ngây thơ và giàu mơ mộng. Từ chính lòng thương người và tình yêu thiên nhiên, Liên đã tự vun trồng cho tâm hồn mình thêm phong phú, cảm xúc bản thân thêm tinh tế và sâu sắc. Tình yêu đời đã khơi nguồn cho tất cả nét đẹp thánh thiện trong tâm hồn của Liên. “Liên thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” bởi lẽ sự tàn lụi đơn thuần của thời gian luôn gợi buồn thăm thẳm trong lòng những người có đời sống nội tâm sâu sắc. Hơn thế nữa, cái thời khắc đơn côi ấy luôn làm lòng người gợi nhớ đến kỉ niệm sum họp gia đình trong quây quần ấm cúng với những tình thân bền chặt. Thế nhưng gia đình Liên nào có được niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy khi mà gánh nặng vật chất có hề buông tha cho họ, trói buộc họ vào vòng mưu sinh riêng lẻ. Thiếu hơi ấm tình thân vào thời khắc hiu quạnh nhất trong ngày dài, làm sao Liên có thể tránh cho mình một nỗi buồn sâu lắng? Nỗi buồn ấy dâng đầy trong mắt chị, tràn ra cả không gian để cùng hòa một nốt trầm buồn với phố huyện đìu hiu. Để tìm sự khuây khỏa trong tâm hồn, Liên đã hướng nỗi buồn đến những nơi xa xôi để đắm chìm trong trí tưởng tượng giàu mơ mộng. “Liên lặng ngước nhìn lên các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông”. Liên thả hồn mình theo bầu trời bao la, để đêm tối và những vì sao xoa dịu tâm hồn mình. Có lẽ chị thấy lòng mình cũng bớt trĩu nặng hơn khi mà ánh sáng của “vòm trời hàng ngàn vì sao ganh nhau lấp lánh” và “vệt sáng của con đom đóm” đã soi vào mắt mình một chút ấm áp, một chút an ủi và một chút ước ao. Anh sáng, và chỉ có thể là ánh sáng hiếm hoi ở nơi phố huyện tối tăm tù túng này, là thứ duy nhất thắp lên niềm hy vọng nhỏ nhoi trong tâm trí Liên. Từ ánh sáng của thiên nhiên, Liên lại mơ về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” với ánh sáng rực rỡ của tháng ngày quá khứ êm đềm và tràn đầy hạnh phúc. Còn gì tiếc nuối hơn những ngày tháng đã qua, Liên được hưởng tất cả niềm hạnh phúc của trẻ thơ: cùng ba mẹ và em “đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Hiểu một cách đơn giản, hạnh phúc trong quá khứ của Liên không bắt nguồn đơn thuần từ niềm vui vật chất mà chính là từ niềm hạnh phúc gia đình khi được ở bên nhau, cùng hưởng những niềm vui không dứt. Những biến cố không ngờ đã bứt Liên ra khỏi Hà Nội yêu dấu, rời xa niềm hạnh phúc giản dị ấy một cách đớn đau. “Vùng sáng rực và lấp lánh” trong những kỉ niệm ấu thơ giờ đã lụi tắt theo khung trời tối tăm chung quanh phố huyện- một khung trời chật hẹp vẫn ngày đêm cắt những vết thương lòng sâu cay vào trái tim non nớt của Liên. Liên càng đau đớn bao nhiêu thì ngọn lửa ước mơ trong chị lại càng cháy khát bấy nhiêu, như muốn thiêu rụi cả không gian chán chường, buồn tẻ nơi phố huyện. Để rồi khi ngọn lửa ấy bùng cháy mãnh liệt nhất trong một ước mơ khôn nguôi, Liên đã khát khao bỏng rát một tương lai tươi sáng sẽ soi rọi cho những số kiếp lầm than khốn khổ vẫn cứ mãi mỏi mòn trong một ao đời phẳng lặng. Tất cả những ước mơ thầm kín ấy, những khát khao cháy bỏng ấy vẫn cứ ngày đêm âm ỉ một niềm hy vọng trong tâm hồn Liên, giờ đây đã theo đoàn tàu “sáng trưng” và “huyên náo” bay về những chân trời vô định của mộng tưởng ở một miền đất rất xa xăm… Đoàn tàu ấy cũng từ Hà Nội đến, cũng lại từ một miền kí ức rất xa xôi đã đem những gam màu tươi tắn điểm xuyến vào cuộc sống thực tại tẻ nhạt của Liên, để Liên lại có thể sống trong một miền kí ức đẹp dù chỉ trong phút giâyngắn ngủi. Rồi   khi đoàn tàu đã đi xa trên con đường bất tận của nó, những mơ ước vốn mơ hồ mong manh giờ đây lại rơi vào vô vọng.

Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hy vọng. Và từ trong hy vọng, ta lại phát hiện và thêm trân trọng một tâm hồn đẹp vẫn luôn luôn tỏa sáng chống lại đêm đen, tuôn trào không bao giờ cạn một nguồn sống đầy những ước mơ, làm bừng lên sức sống từ trong sự điêu tàn của nghịch cảnh…

Qua những điều trên, ta càng thấu rõ những vẻ đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên. Bằng một nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp ấy từ một viên ngọc quý với gam màu dịu nhẹ và đường nét thanh tao. Viên ngọc ấy sẽ còn mãi tỏa ánh sáng êm đẹp trên nền hiện thực xã hội đầy ngang trái, bế tắc. Đường đi trước mắt của Liên tuy còn tăm tối nhưng những ước mơ đã thật sự mở ra trên con đường ấy một ít ánh sáng, một ít tương lai. Và bất cứ ai trong chúng ta một khi đã đọc qua câu chuyện của Liên sẽ có một niềm tin rằng: dù buổi chiều hôm ấy cũng như buổi chiều của những ngày hôm sau có lụi tàn đi trong vầng dương cháy bỏng hay đêm tối tĩnh mịch thì tâm hồn và tính cách của Liên sẽ còn mãi ngời tỏa sâu sắc trong lòng tất cả chúng ta.

  • Phân tích tâm trạng của hai đứa trẻ khi đợi tàu



Xem thêm tại: https://doctailieu.com/phan-h-nhan-vat-lien-trong-truyen-hai-dua-tre-p1004

  “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”

Nhận định của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thiên chức của văn chương chính là tấm gương phản ánh trung thành hiện thực cuộc sống khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dù được sáng tác bằng bất cứ thể loại nào và trong bất cứ thời đại nào, ngòi bút của các nhà văn luôn hướng đến cuộc sống với tất cả những nỗi niềm, dù là vui tươi yêu đời hay đau khổ đến phẫn uất của con người. Đây cũng chính là mảnh đất cội nguồn màu mỡ đã được các nhà văn đào sâu và khai phá tự muôn thuở của văn chương.

Thế nhưng, cũng nằm trong quan điểm đó, các sáng tác của Thạch Lam lại mang một dấu ấn rất riêng với bút pháp vừa hiện thực lại vừa trữ tình mà tiêu biểu hơn cả chính là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Qua không gian một phố huyện nghèo xác xơ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Thạch Lam đã khắc họa nên những nét đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên-một cô bé hồn nhiên, đáng yêu, giàu tình người và những khát khao thầm kín.

Bằng những nét phác thảo cơ bản nhưng rất đậm sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp trong tính cách của Liên. Đó là hiện thân của một cô bé giàu lòng nhân hậu và tình yêu thương những cảnh đời khốn khó. Tận sâu trong trái tim non nớt của Liên là sự rung cảm dạt dào và xót xa trước những kiếp người nghèo khổ. Bày lên trước mắt Liên là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa” còn sót lại sau khi đã vãn chợ chiều. Đó cũng là hình ảnh đầy đau xót của mẹ con chị Tí, bác Siêu và gia đình bác xẩm với gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền trên vai đã chẳng bao giờ có thể thoát khỏi vòng đời nghèo khó quanh quẩn.Liên trông thấy tất cả những con người ấy trong một buổi chiều buồn ảm đạm nơi phố huyện nghèo xơ xác. Trong lòng Liên trào dâng một “lòng thương” vô hạn, một nỗi niềm xót xa không gì tả xiết. Bởi lẽ, những cảnh đời khốn khó ấy cũng không ngoại trừ gia đình Liên ra khỏi vòng tay oan nghiệt của nó khi mà với gánh nặng vật chất đang đè nén, họ đã bị xé lẻ đến nghiệt ngả. Từ nỗi buồn đơn sơ trước thời khắc của ngày tàn, Liên đã hướng nỗi buồn của mình sang những người dân nghèo nơi phố huyện cũng như đồng cảm với những cảnh đời lam lũ cơ cực. Trái tim Liên đã hòa chung nhịp đập với con người ở phố huyện-một nhịp đập sâu lắng, nhẹ nhàng mà uất nghẹn khôn nguôi. Để rồi những tình cảm ấy sẽ được phân chất thành một nỗi u sầu đậm đặc trong tâm hồn Liên. Liên thương người là thế, đau xót cho những kiếp khổ triền miên là thế mà cũng đành phải lẳng lặng làm thinh để cho tình thương chôn chặt nơi đáy mắt không thể bật lên thành những hành động cao đẹp. Nỗi đời cơ cực đã chạm những nanh vuốt sắc lạnh của nó đến bên gia đình Liên, đến bên tâm hồn ngây thơ giàu tình cảm của Liên. Tâm hồn ấy mãi cũng chỉ có thể là tiếng khóc thương thầm lặng cho những kiếp người lầm than-một tiếng khóc buồn trong bế tắc khi mà “chính chị cũng không có tiền để cho” những đứa trẻ ấy một chút niềm an ủi mỏng manh. Nhưng cũng chính từ trong bế tắc, tuyệt vọng, tấm lòng của Liên lại hiện lên trước mắt chúng ta vớiđđầy đủ vẻ đẹp của một viên ngọc ngời tỏa. Không những thế, viên ngọc ấy còn như được phủ lên một lớp men đẹp dịu bởi tình thương yêu em và tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ của Liên. Liên không quãng đêm khuya nhọc mệt bủa vây xug quanh mình, vẫn chịu khó cùng An trông hàng giúp mẹ. Mắt Liên đã nặng trĩu sau một ngày dài với bao lo toan, mệt mỏi. Thế nhưng với một tình thương cha, tình yêu mẹ cùng sự cảm thông sâu sắc trước những khó khăn của cha mẹ, Liên vẫn âm thầm làm việc từ ngày này sang ngày khác.Đôi mắt ấy đã mở bừng trong những tình thương dào dạt đối với cha mẹ, với An và đối với tất cả những cảnh đời lay lắt nơi phố huyện. Tình cảm ấy sâu rộng, bao la tựa hồ như một dòng nước suối chảy tràn trong tâm hồn Liên, như làn gió mát dịu vút bay phủ trùm cả phố huyện. Nhẹ nhàng và êm ái, tình cảm của Liên đã đan đầy cả không gian u tối, bộc lộ nên một tính cách đẹp soi rọi cả màn đêm mờ mịt…

Nhưng nếu chỉ xét đến tính cách của Liên thôi thì quả là một sự thiếu xót to lớn khi mà tâm hồn chị vẫn rạng ngời một nét đẹp ngây thơ và giàu mơ mộng. Từ chính lòng thương người và tình yêu thiên nhiên, Liên đã tự vun trồng cho tâm hồn mình thêm phong phú, cảm xúc bản thân thêm tinh tế và sâu sắc. Tình yêu đời đã khơi nguồn cho tất cả nét đẹp thánh thiện trong tâm hồn của Liên. “Liên thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” bởi lẽ sự tàn lụi đơn thuần của thời gian luôn gợi buồn thăm thẳm trong lòng những người có đời sống nội tâm sâu sắc. Hơn thế nữa, cái thời khắc đơn côi ấy luôn làm lòng người gợi nhớ đến kỉ niệm sum họp gia đình trong quây quần ấm cúng với những tình thân bền chặt. Thế nhưng gia đình Liên nào có được niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy khi mà gánh nặng vật chất có hề buông tha cho họ, trói buộc họ vào vòng mưu sinh riêng lẻ. Thiếu hơi ấm tình thân vào thời khắc hiu quạnh nhất trong ngày dài, làm sao Liên có thể tránh cho mình một nỗi buồn sâu lắng? Nỗi buồn ấy dâng đầy trong mắt chị, tràn ra cả không gian để cùng hòa một nốt trầm buồn với phố huyện đìu hiu. Để tìm sự khuây khỏa trong tâm hồn, Liên đã hướng nỗi buồn đến những nơi xa xôi để đắm chìm trong trí tưởng tượng giàu mơ mộng. “Liên lặng ngước nhìn lên các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông”. Liên thả hồn mình theo bầu trời bao la, để đêm tối và những vì sao xoa dịu tâm hồn mình. Có lẽ chị thấy lòng mình cũng bớt trĩu nặng hơn khi mà ánh sáng của “vòm trời hàng ngàn vì sao ganh nhau lấp lánh” và “vệt sáng của con đom đóm” đã soi vào mắt mình một chút ấm áp, một chút an ủi và một chút ước ao. Anh sáng, và chỉ có thể là ánh sáng hiếm hoi ở nơi phố huyện tối tăm tù túng này, là thứ duy nhất thắp lên niềm hy vọng nhỏ nhoi trong tâm trí Liên. Từ ánh sáng của thiên nhiên, Liên lại mơ về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” với ánh sáng rực rỡ của tháng ngày quá khứ êm đềm và tràn đầy hạnh phúc. Còn gì tiếc nuối hơn những ngày tháng đã qua, Liên được hưởng tất cả niềm hạnh phúc của trẻ thơ: cùng ba mẹ và em “đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Hiểu một cách đơn giản, hạnh phúc trong quá khứ của Liên không bắt nguồn đơn thuần từ niềm vui vật chất mà chính là từ niềm hạnh phúc gia đình khi được ở bên nhau, cùng hưởng những niềm vui không dứt. Những biến cố không ngờ đã bứt Liên ra khỏi Hà Nội yêu dấu, rời xa niềm hạnh phúc giản dị ấy một cách đớn đau. “Vùng sáng rực và lấp lánh” trong những kỉ niệm ấu thơ giờ đã lụi tắt theo khung trời tối tăm chung quanh phố huyện- một khung trời chật hẹp vẫn ngày đêm cắt những vết thương lòng sâu cay vào trái tim non nớt của Liên. Liên càng đau đớn bao nhiêu thì ngọn lửa ước mơ trong chị lại càng cháy khát bấy nhiêu, như muốn thiêu rụi cả không gian chán chường, buồn tẻ nơi phố huyện. Để rồi khi ngọn lửa ấy bùng cháy mãnh liệt nhất trong một ước mơ khôn nguôi, Liên đã khát khao bỏng rát một tương lai tươi sáng sẽ soi rọi cho những số kiếp lầm than khốn khổ vẫn cứ mãi mỏi mòn trong một ao đời phẳng lặng. Tất cả những ước mơ thầm kín ấy, những khát khao cháy bỏng ấy vẫn cứ ngày đêm âm ỉ một niềm hy vọng trong tâm hồn Liên, giờ đây đã theo đoàn tàu “sáng trưng” và “huyên náo” bay về những chân trời vô định của mộng tưởng ở một miền đất rất xa xăm… Đoàn tàu ấy cũng từ Hà Nội đến, cũng lại từ một miền kí ức rất xa xôi đã đem những gam màu tươi tắn điểm xuyến vào cuộc sống thực tại tẻ nhạt của Liên, để Liên lại có thể sống trong một miền kí ức đẹp dù chỉ trong phút giâyngắn ngủi. Rồi   khi đoàn tàu đã đi xa trên con đường bất tận của nó, những mơ ước vốn mơ hồ mong manh giờ đây lại rơi vào vô vọng.

Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hy vọng. Và từ trong hy vọng, ta lại phát hiện và thêm trân trọng một tâm hồn đẹp vẫn luôn luôn tỏa sáng chống lại đêm đen, tuôn trào không bao giờ cạn một nguồn sống đầy những ước mơ, làm bừng lên sức sống từ trong sự điêu tàn của nghịch cảnh…

Qua những điều trên, ta càng thấu rõ những vẻ đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên. Bằng một nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp ấy từ một viên ngọc quý với gam màu dịu nhẹ và đường nét thanh tao. Viên ngọc ấy sẽ còn mãi tỏa ánh sáng êm đẹp trên nền hiện thực xã hội đầy ngang trái, bế tắc. Đường đi trước mắt của Liên tuy còn tăm tối nhưng những ước mơ đã thật sự mở ra trên con đường ấy một ít ánh sáng, một ít tương lai. Và bất cứ ai trong chúng ta một khi đã đọc qua câu chuyện của Liên sẽ có một niềm tin rằng: dù buổi chiều hôm ấy cũng như buổi chiều của những ngày hôm sau có lụi tàn đi trong vầng dương cháy bỏng hay đêm tối tĩnh mịch thì tâm hồn và tính cách của Liên sẽ còn mãi ngời tỏa sâu sắc trong lòng tất cả chúng ta.

  •  

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, em ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại. Ông nội nhà văn quê ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam, ra làm quan ở đất Bắc rồi sống luôn ngoài ấy. Thạch Lam sinh năm 1910, tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, quê mẹ. Lớn lên, ông học Trung học ở Hà Nội, rồi bỏ học đi làm báo, viết văn cùng các anh và trở thành một cây bút đắc lực của báo Phong hóa và Ngày nay. Sự nghiệp văn chương đang trên đà phát triển thì ông mắc bệnh lao và mất năm 1942, mới 32 tuổi.

Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để mọi người nhận thấy ông là một nhà văn có phong cách riêng trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc. Mỗi truyện của ông giống như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc thương yêu con người và cảnh vật. Ông có nhiều đóng góp đáng quý cho sự nghiệp phát triển văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn. Tác phẩm Thạch Lam để lại là truyện ngắn: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc,… tiểu thuyết Ngày mới; bút kí Hà Nội 36 phố phường; tiểu luận: Theo dòng…

Truyện ngắn Hai đứa trẻ trích từ tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ.

Hai đứa trẻ nói về hai chị em Liên và An. Chị độ mười hai, mười ba; em lên tám, lên chín. Gia đình trước ở Hà Nội, sau vì sa sút nên phải về quê ở phố huyện này. Mẹ bận làm hàng xay hàng xáo, giao cho hai chị em trông coi quầy hàng xén nhỏ xíu ở gần ga. Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ. Em buồn ngủ, ngả vào người chị nhưng vẫn nhắc hễ tàu đến thì đánh thức dậy. Chị ngồi nhìn quang cảnh xung quanh. Sự sống chỉ còn thu lại ở cái chõng hàng nước, một gánh phở, một gia đình nhà xẩm. Tất cả đều chìm trong bóng tối mênh mông, còn ánh sáng rực rỡ trên các toa tàu thì vun vút qua mau như từ một cõi nào xa lạ. Hai chị em trông theo làn ánh sáng ấy cho đến lúc nó khuất hẳn ở đằng xa mới đóng cửa đi ngủ.

Nội dung truyện chỉ có vậy nhưng cả một thế giới đã được gợi lên với niềm thương cảm sâu xa. Đó là một thế giới âm thầm, lặng lẽ trong bóng tối của đêm đen; bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó; trong im lìm quạnh quẽ của phố huyện xác xơ. Những đốm sáng lù mù, leo lét lại càng làm nổi rõ thêm màu sắc u ám của cuộc sống khốn cùng. Cũng như ánh sáng rực rỡ thoáng qua ở các toa tàu có vẻ như một ảo ảnh xa xôi không bao giờ dám mơ ước tới. Cái thế giới ấy hai đứa trẻ đã quen thuộc, hơn nữa, đã hòa nhập vào đó với tất cả tâm hồn.

Tác giả chia truyện ra làm ba phần theo trình tự chuyển biến của thời gian và không gian. Phần một là cảnh chợ chiều lúc vừa có tiếng trống thu không, hai chị em Liên đang còn loay hoay xếp dọn cửa hàng. Phần hai là quang cảnh phố huyện về đêm, bóng tối bao phủ khắp nơi. Dấu hiệu của sự sống chỉ còn là mấy ánh đèn. Phần ba là cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu đêm vun vút chạy qua trong chốc lát cùng tiếng ồn và ánh sáng.

Câu chuyện diễn ra trong một khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận ở cả hai chiều thời gian và không gian. Đó là khoảng thời gian rất ngắn, không gian có sự thay đổi từ cảnh chiều tàn cho đến khi màn đêm buông xuống và đất trời về khuya. Màu sắc của cảnh vật thì từ nhờ nhờ chuyển sang đen sẫm. Màu của cuộc sống ban đêm càng khuya càng tăm tối. Trên cái nền ấy nổi lên một số cảnh tình cứ xoáy mãi vào lòng người đọc. Đó là cảnh ngày tàn nơi phố huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, một góc chợ đơn sơ, một quán nước nghèo nàn, những kiếp người cơ cực và hình ảnh đoàn tàu vụt qua trong đêm tối.

Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày:

Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

Các hình ảnh trên đều gợi cảm giác bâng khuâng, man mác.. Gọi là phố huyện nhưng là huyện nhỏ, hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi chứ không phải là một tháp canh. Cái chòi bé tí lại lẩn vào dãy tre làng đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.

Trong bức tranh chiều tàn nơi phố huyện có sự hoà trộn giữa hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Chẳng hạn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều là thơ mộng; còn tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve… thì đã gợi ra cuộc sống nghèo nàn nơi thôn dã.

Thật ra, cũng khó mà nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn thơ ngây của hai chị em lan tỏa ra, nhuốm vào cảnh vật. Chỉ biết ở đây có một cái gì đó thật nhịp nhàng, hòa hợp giữa cảnh với người.

Đoạn văn mở đầu vừa giàu hình ảnh, nhạc điệu, vừa uyển chuyển, tinh tế. Nó không những khiến người đọc hình dung ra cảnh vật mà còn khơi gợi tình cảm, xúc cảm trước thiên nhiên gần gũi, bình dị của quê hương.

Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người chỉ là bóng tối và sự vắng lặng, quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn bộc lộ rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Đó là mặt trái, là một thứ bóng tối của chợ.

Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào xu thế thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban ngày trước cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng mỗi lúc một mạnh của những cảnh tình ban đêm mà bóng tối dần dần ngự trị. Mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Bóng tối mênh mang, phủ trùm lên tất cả cảnh vật và con người.

Lúc còn tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng ấy không thể xua tan bóng tối, khiến những hòn đá nhỏ hãy còn một bên tối. Bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa thì bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo đến tận đàng xa. Chị em Liên ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa. Trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối.

Bóng tối át cả ánh sáng. Vài ánh sáng thưa thớt, mờ nhạt khiến bóng tối lại càng dày đặc. Vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây, cũng như hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên liền trời… Thứ ánh sáng xa vời ấy là sản phẩm của đêm, hoà tan trong bóng đêm. Đáng chú ý là ngọn đèn le lói trên chõng hàng nước của mẹ con chị Tí, bếp lửa thấp thoáng nơi gánh phở của bác Siêu, ánh đèn yếu ớt trong quầy hàng của chị em Liên và từ cái đèn lồng trong tay người nhà hiệu khách, từ chiếc đèn ghi xanh lét của nhà ga. Ngọn đèn trên chõng hàng nước của chị Tí chỉ là một quầng sáng nhỏ nhoi giữa mặt đất ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật. Bếp lửa của bác Siêu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối, thoáng hiện, thoáng mất, chỉ làm cho bóng bác mênh mang. Ánh đèn trong cửa hàng chị em Liên thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng thì lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn. Chiếc đèn ghi thì lửa xanh biếc như ma trơi. Trong khi đó, chung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một bóng tối đen kịt, mênh mông, vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ làm cho bóng đêm thêm dày đặc, âm u.

Trang sách nhuộm đầy bóng tối là để gắn vào cái khung tối tăm ấy những mảnh đời không kém tối tăm. Trong cảnh ngày tàn, chợ tàn, hiện lên những kiếp người tàn tạ. Những kẻ kiếm sống ban ngày với phiên chợ như mấy bà bán hàng về muộn, mấy đứa trẻ nhặt rác, chị em Liên. Những người kiếm sống ban đêm quanh góc chợ và sân ga xép như mẹ con chị Tí, bà cụ Thi, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm…

Họ có chung cuộc sống tối tăm, nghèo đói, chung cảnh ngộ tẻ nhạt, buồn chán. Tuy vậy, trong tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tình quê hương và le lói một niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.

Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi.

Vào đêm thì có cuộc đời của mẹ con chị Tí với cái hàng nước đơn sơ. Ban ngày thì hai mẹ con mò cua bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi, điếu thuốc lào cho dăm ba phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục, có khi chờ mãi mà chẳng thấy ai ra. Hai mẹ con vừa xách, vừa vác trên lưng, vừa đội trên đầu… vậy mà chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén, chiếc điếu cày, nắm đóm… Thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè. Nước, thuốc đã sẵn sàng. Chị Tí luôn tay phe phẩy túm lá chuối khô, bất giác thốt lên nỗi nóng lòng sốt ruột trước cảnh ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? Dù rằng chị đã biết trước: Ối chao, sớm với muộn thì có ăn thua gì! Câu nói ngẫu nhiên mà giúp người đọc hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ con chị, đã cơ cực mà chỉ còn trông cậy vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng mấy hi vọng.

Nhưng mẹ con chị Tí vẫn có một chiếc ghế để ngồi, một ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác xẩm thì nằm ngồi ngổn ngang ngay trong chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơn để trước mặt. Im lìm như một gia đình bò sát, nếu không có mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện. Rồi sau đó không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên đất.

Còn cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu (xị rượu), khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và tiếng cười khanh khách nhỏ dần.

Ba cảnh đời trên của lũ trẻ ven chợ, của mẹ con chị Tí, của gia đình bác xẩm đều bị bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó phủ lên đen ngòm. Sự thê thảm lồ lộ, chẳng ẩn giấu chút gì. Riêng bà cụ Thi vẫn có tiền uống rượu, vẫn nói năng ôn tồn, âu yếm với cô bé bán hàng nhưng rượu thì nốc một hơi, lại cười khanh khách, không biết vì duyên cớ gì? Đêm đêm, chỉ thấy bà từ trong làng đi ra rồi lại lẩn vào bóng tối phía làng. Oan ức gì chăng? Buồn khổ gì chăng? Không rõ, nhưng chắc chắn bóng tối đã đè nặng lên cuộc đời bà, góp thêm một hình ảnh vừa lạ lùng vừa đáng sợ vào những cảnh đời – bóng tối ở phố huyện này.

Bác Siêu bán phở không xa nhưng cũng không gần các cảnh đời kia. Bác như dấu gạch nối giữa hạng người bần cùng với những hạng người khác trong phố huyện. Họ thấp thoáng ở nơi có người cầm đèn lồng đi đón bà chủ ở ga về, nơi có hội bài tổ tôm sát phạt nhau hàng chục bạc mà hạng người khốn khổ nằm mơ cũng không thấy nổi, nơi có lính tráng đánh trống thu không và mõ cầm canh. Cuộc sống khá giả của họ như tấm phông làm nổi bật những cảnh đói nghèo, như ánh sáng tương phản với bóng tối.

Trong bối cảnh của truyện, nét nào cũng tối đen: lũ trẻ ven chợ như loài dơi chờ xẩm tối mới mò ra, tìm cái sống ở bất cứ cái gì người ta vứt đi. Mẹ con chị Tí hàng nước kiếm sống ở sự chờ đợi rủi may. Gia đình nhà xẩm hầu như sắp lẩn mình vào đất. Bà cụ Thi hơi điên chứa chất một góc tối om trong sâu kín tâm hồn. Nhập chung lại thì toàn là những cảnh đời – bóng tối. Liệu còn le lói chút uớc mong nào không? Khung cảnh phố huyện giờ đây thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi ở đó còn có ngọn đèn tù mù, trong khi cả phố tối om. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ của họ.

Trong bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hoà trộn đầy dụng ý giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng thì chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng,… mà bóng đêm thì vừa dày đặc vừa mênh mông. Tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa. Tối đến mức dường như tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống cầm canh của phố huyện tưởng chừng cũng không vang lên được. Điều này khiến người đọc phần nào hình dung ra những kiếp sống chìm khuất, mỏi mòn gần như bị bỏ quên nơi ga xép của phố huyện nghèo nàn, đồng thời gợi một niềm thương cảm sâu xa.

Diễn biến tâm trạng hai đứa trẻ trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống nơi phố huyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và ẩn chứa nhiều ý nghĩa.

Chưa nói tới dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng hai đứa trẻ và lấy đó làm nhan đề cho tác phẩm; hãy cứ biết đó là hai đứa trẻ với những đặc điểm của lứa tuổi thiếu nhi. Chị đã biết quý mến và hãnh diện với cái dây xà tích bạc vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang. Như thế thì chưa hẳn là lớn mà vẫn vương chút trẻ con. Biết thay mẹ tính toán tiền nong, sắp xếp hàng họ, biết thương em, đó mới thật là cô gái lớn ngoan hiền.

Ngồi trước cửa hàng, Liên lặng lẽ cảm nhận khung cảnh chiều quê, tuy buồn bã nhưng thân thuộc, gần gũi và cảm thông, chia sẻ với những con người sống lay lắt nơi phố huyện nghèo.

Hai chị em trước đây sống ở Hà Nội cùng gia đình, nhưng vì cảnh nhà sa sút nên mới dọn về đây. Mẹ mở một quán tạp hoá nhỏ xíu giao cho hai chị em trông nom. Ban ngày bán hàng, ban đêm đóng cửa cài then cẩn thận. Chập tối, mẹ ghé qua thăm, dặn các con phải thức đến lúc xe lửa đi qua mới được ngủ. Vì thế nên hai chị em Liên đã quen thuộc với con người và cảnh vật trong phố huyện, đã hoà nhập vào cuộc sống nơi này một cách hồn nhiên.

Trước hết là quen với bóng tối. Hà Nội nhiều đèn quá, một vùng sáng rực và lấp lánh, còn ở đây thì ngược tại. Màn đêm buông xuống, mắt Liên ngập dần bóng tối và Liên không hiểu sao, thấy buồn. Dần dần, Liên quen không sợ bóng tối mà còn chú ý đến những gì diễn ra và chứa đựng trong đó: thấy những hòn đá nhỏ trên đường một bên sáng một bên tối; cảm nhận mùi âm ẩm lẫn mùi cát bụi lúc chợ đã vãn mà tưởng là mùi riêng của đất này. Nhìn lũ trẻ nghèo nhặt nhạnh bất cứ cái gì trên nền chợ mà hai chị em động lòng thương. Khi mẹ con chị Tí mang vác cả hàng nước ra, Liên lặng lẽ quan sát từng cử chỉ một. Nghe tiếng cười khanh khách là Liên nhận ngay ra bà cụ Thi. Nhìn bọn trẻ nô đùa, An cũng muốn nhập bọn nhưng sợ trái lời mẹ dặn. Thấy một chấm lửa hiện ra rồi mất đi là hai chị em biết gánh phở bác Siêu thấp thoáng đằng xa. Lúc mọi nơi đều đã tối đen, ánh sáng từ ngọn đèn trong quán toả ra chỉ là vài hột sáng lọt qua phên nứa, thì hai chị em đã buồn ngủ ríu cả mắt. Khi đoàn tàu đã đi qua thì hai tâm hồn trẻ thơ ấy cũng rơi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối, giống như mọi người nghèo khổ khác ở phố huyện này.

Đêm nào Liên và An cũng cố thức cho tới giờ xe lửa chạy qua theo đúng lời mẹ dặn, nhưng còn vì một lí do đặc biệt khác. Có phải là các em chỉ đơn giản muốn được nhìn chuyến tàu, một hoạt động cuối cùng của đêm khuya? Không phải! Còn có cái gì đó sâu xa hơn nhiều đối với hai chị em và đám người khốn khổ ở phố huyện này. Với hai đứa trẻ, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt hằng ngày của chúng.

Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng qua tâm trạng chờ mong và cảm nhận của hai chị em Liên và An. Cách quan sát, miêu tả của Thạch Lam tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự từ xa đến gần bằng nhiều giác quan, bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại.

Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước bằng ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu từ xa vẳng lại. Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió. Sau đó, nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa… Thế rồi tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh đoàn tàu đi xa dần, mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre…

Có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu – một thế giới khác mà chuyến tàu đêm mang qua phố huyện trong chốc lát và hình ảnh của sự trở về trạng thái lặng lẽ, tối tăm, không thay đổi nơi phố huyện. Một bên là sự hoạt động nào nhiệt cuối cùng của đêm và một bên là sự im lặng mênh mông của đêm tối, trong giấc ngủ và cả trong sự lãng quên. Chuyến tàu đêm sáng rực, vui vẻ và huyên háo, đầy hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Điều đó dường như làm cho nỗi buồn càng thêm thấm thía trong tâm hồn hai đứa trẻ; để lại cho chúng sự khát khao, nuối tiếc không nguôi. Gần như đã thành nếp, những người dân nơi phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động của một ngày khi chuyến tàu đêm đã đi xa.

Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này.

Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến những người nghèo khổ hình dung ra một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng.

Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chỉ đem đến một thoáng vui mà còn gợi thật nhiều bâng khuâng, thương cảm.

Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo thì càng làm cho khung cảnh nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Người đọc cùng Thạch Lam thông cảm với tâm trạng của lớp người sống lầm lũi trong tăm tối, nghèo khổ. Tuy thế, truyện cũng nhen nhóm trong lòng người đọc hi vọng vượt lên sự tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống hằng ngày.

Nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam trong truyện Hai đứa trẻ thật độc đáo. Tác giả miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật. Cách miêu tả này góp phần quan trọng tạo nên không khí cho tác phẩm.

Có sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh (bức tranh phố huyện) với thế, giới nội tâm nhân vật (tâm trạng cô bé Liên) trong từng thời khắc: cảnh chiều buông thì người buồn man mác; cảnh đêm xuống thì người đợi chờ khắc khoải; cảnh đêm khuya, chuyến tàu đi qua thì người buồn tiếc, mơ tưởng, khát khao,…

Tuy nhiên, ở một vài đoạn văn, tác giả miêu tả thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm không thuần nhất mà có sự pha trộn vui buồn khó tả. Những hình ảnh êm đềm thi vị hoà trộn với hình ảnh nghèo nàn lam lũ; ánh sáng hoà trộn vào bóng tối; cái huyên náo chốc lát hoà vào cái im lặng mênh mông… Tất cả những cái đó kết hợp với nhau thật hài hoà, tự nhiên, làm nổi bật tâm trạng của nhân vật.

Giọng văn Thạch Lam nhẹ nhàng, khách quan nhưng ẩn chứa một tình cảm xót thương thực sự đối với những con người nghèo khổ. Tình cảm nhân đạo của tác giả rất đáng trân trọng. Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả tinh tế mà vẫn rất tự nhiên, khiến người đọc khó quên.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ là lời gợi nhắc về tình cảm gắn bó với nguồn cội, quê hương, với những kí ức đẹp mà buồn. Đó là tấm lòng nhân ái của nhà văn đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh, đơn điệu, mỏi mòn; là niềm trân trọng đối với từng mong ước nhỏ nhoi của những con người bất hạnh bị bỏ quên nơi ga xép của những chuyến tàu thời gian vô định.

Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, ta thấy đằng sau vẻ chân chất, dung dị lại là sự tinh vi, sâu sắc, rất đúng với phong cách Thạch Lam. Đi vào tác phẩm của Thạch Lam là đi vào thế giới tâm tình. Tình tiết của truyện đơn sơ nhưng chính những cảm nghĩ chân thành của nhà văn đối với những mảnh đời khốn khó khiến cho người đọc xúc động. Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét: Truyện “Hai đứa trẻ" có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quả vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… Nơi cái thế giới quan của một đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ" thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín. (Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học – Hà Nội – 1998)

Thạch Lam đã nhập thân vào nhân vật Liên để khám phá, cảm nhận phố huyện. Liên mới 8 tuổi nhưng đã sớm có những quan sát, nhạy cảm trước sự thay đổi của cuộc sống. Thạch Lam đã rất tinh tế khi miêu tả được những diễn biến tâm lý phức tạp trong Liên trong một khoảnh khắc ngắn của thời gian từ chiều tà đến đêm tối. Mọi diễn biến của cuộc sống xung quanh, từng sự thay đổi dù là sự nhỏ nhất của mảnh đất Liên đang sống cũng được nắm bắt qua đôi mắt và cảm nhận của Liên.

Liên là cô bé nhạy cảm, hay động lòng trắc ẩn trước những biến thiên của cuộc đời, đặc biệt là những lay lắt, mòn mỏi của xã hội cũ. "CHIỀU! Chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru". Truyện mở đầu bằng âm thanh của tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi chiều như báo hiệu một ngày dài đã kết thúc. Chuẩn bị là đêm xuống với bao ám ảnh. Qua đôi mắt của Liên "Chiều. Chiều rồi" như một lời thảng thốt, bàng hoàng, như một tiếng thở dài. Không gian phố huyện được mở ra như đượm một nỗi buồn hiu hắt. Khoảnh khắc cuối ngày là sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối nhưng dường như "những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn".

Nỗi buồn trong Liên càng thấm thía hơn khi chứng kiến khung cảnh chợ tàn cùng những kiếp người tàn trong thời khắc ngày tàn đó. Ngày mà phiên chợ xơ xác, trên mặt đất chỉ còn lại vỏ bưởi, bã mía, rác rưởi… Những phế phẩm của một vùng quê nghèo. Đặc biệt là cái dáng lom dom của "những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại lang thang trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay những gì còn sót lại của mấy người bán hàng".

Nỗi buồn trong Liên càng được dấy lên khi màn đêm buông xuống, cả phố huyện chìm trong bóng tối, con người cũng bước ra, sinh hoạt trong bóng tối rồi lại lầm lũi đi vào màn đêm đen đặc. Trong cảm nhận của Liên, buổi đêm với bóng tối thật ghê gớm "tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa". Đêm tối đối với Liên "quen lắm, chị không sợ nó nữa". "Không sợ nó nữa" nghĩa là đã từng sợ, nhưng giờ đã quen rồi hay Liên đã nhẫn nhục, cam chịu bởi không thể thoát được? Nhưng tâm hồn ấy vẫn khao khát ánh sáng qua việc kiếm tìm vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông, qua việc tìm kiếm những "hột sáng", "khe ánh sáng", "đốm sáng", "vệt sáng" nơi phố huyện.

Ngòi bút nhân hậu của Thạch Lam không muốn dìm mãi người đọc trong cái tăm tối, mòn mỏi, nghèo khổ mà còn tha thiết hướng con người về phía ánh sáng của sự sống để khơi lên niềm khao khát hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhà văn đã phát hiện thêm nhiều cung bậc khác nhau nơi tâm hồn Liên qua việc Liên khao khát đợi chuyến tàu đêm. Liên mong ngóng con tàu từ phương xa, hồi hộp vui sướng khi con tàu đến gần và buồn bã thất vọng khi còn tàu biến mất.

Cuộc sống càng mòn mỏi càng bế tắc thì hình ảnh chuyến tàu đêm càng đem lại cho con người hi vọng. Liên cùng những người dân phố huyện chờ đợi trong tâm trạng khắc khoải để sống trọn vẹn được một ngày. Liên dõi theo con tàu từ phía xa khi trông thấy "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma chơi". Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Đoàn tàu xuất hiện làm cho khung cảnh phố huyện khuấy động lên chút ít, làm không gian mới thực sự là phố huyện chứ không phải muôn đời bị quên lãng. Liên thoáng trông thấy toa hạng trên sang trọng, kền và đồng lấp lánh, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ…Đó mới là thế giới của những con người nghèo khổ này ao ước được sống, dù là trong giây lát. Hình ảnh đoàn tàu làm nảy sinh tâm trạng đợi tàu trong chị em Liên, An và nó đã trở thành thói quen, nếu không được trông thấy chuyến tàu đêm đi qua chắc hai chị em không còn nhớ những giây phút sống trong mơ ước, khát khao nữa.

Nếu những người dân nơi đây đợi chuyến tàu để bán thêm ít hàng, để được trông thấy hoạt động cuối cùng của đêm khuya thì với chị em Liên, nhìn chuyến tàu qua là một cách để nhớ về quá khứ tươi đẹp. Con tàu từ Hà Nội về là tia hồi quang nhắc chị em Liên nhớ về một thời "lúc thầy Liên chưa mất việc…được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ". Sống trong hiện tại nhưng chưa bao giờ hai chị em thôi khao khát về quá khứ và dường như con tàu là động lực sống mạnh mẽ nhất cho Liên. Liên chìm trong những hồi tưởng đẹp đẽ đó cho đến khi con tàu chuyển bánh, lại lao vào màn đêm không cùng mang theo ánh mắt tiếng nuối của hai chị em.

Miêu tả nhân vật Liên, Thạch Lam đã nhập thân vào nhân vật, sống cùng nhân vật nên hiểu rõ nỗi niềm sâu kín bên trong của Liên. Nhà văn đã bộc lộ một biệt tài xây dựng nhân vật khi tập trung thể hiện thế giới nội tâm của con người ở những cung bậc cảm xúc tinh tế nhất. Truyện không có cốt truyện cùng thủ pháp đối lập tương phản, sử dụng những đối thoại có xu hướng chuyển thành độc thoại….đã góp phần thể hiện sâu sắc thế giới nội tâm của Liên.

^ HT ^

Yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta có từ ngàn đời nay. Dân tộc ta luôn gìn giữ và phát huy truyền thống đó. Vậy ta hiểu tình yêu thương là gì? Tình yêu thương được biểu hiện ở sự đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia và gắn bó giữa con người với con người, từ suy nghĩ và còn thể hiện qua cả hành động tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Tình yêu thương được thể hiện ở tấm lòng biết sẻ chia, gắn bó giữa người với người: giọt nước mắt nóng hổi lăn trên gò má khi xem một bộ phim khiến ta xúc động, có khi đó là nỗi niềm trắc ẩn trước số phận bất hạnh của những cảnh đời éo le, một ánh mắt trìu mến cảm thông, một cái nắm tay siết chặt tình bạn bè hay những hành động cử chỉ giản đơn hơn. Bản thân là học sinh chúng ta hãy thể hiện tình yêu thương từ những việc làm nhỏ nhất, hãy dắt tay một em nhỏ, một cụ già qua đường, động viên các bạn khi gặp những khó khăn, dành phần tiền ăn sáng của mình tạo quỹ thập đỏ trong nhà trường, giúp đỡ những bạn có hoàn cảnh gia đình khó khăn biết vượt khó học giỏi… Mỗi khi làm việc đó ta sẽ thấy vui hơn, hạnh phúc hơn và thấy tâm hồn mình cao đẹp hơn được mọi người tin yêu và kính trọng. Tuy nhiên, nếu thiếu tình yêu thương cuộc sống con người sẽ trở nên trống rỗng, cằn cỗi, tâm hồn con người bị xơ cứng, ích kỷ, hẹp hòi, đó là những con người cả đời chỉ lo đến quyền lợi cá nhân, thờ ơ vô cảm trước nỗi đau bất hạnh của người khác, đó là biểu hiện của lối sống ích kỷ, hẹp hòi đi ngược với đạo lý ”thương người như thể thương thân” họ đáng bị xã hội lên án. Và chúng ta đừng bao giờ như họ, hãy yêu thương chân thành không vụ lợi, thậm chí ngay cả bản thân phải sống trong hoàn cảnh bất hạnh, nghèo khổ cũng cần phải yêu thương người khác. Như vậy, tình yêu thương là một tình cảm cao đẹp, là đạo lý làm người mang lại hạnh phúc cho bản thân và những người xung quanh. Vì thế chúng ta - tuổi trẻ hôm nay hãy mở rộng cánh cửa trái tim mang ngọn lửa yêu thương đến với mọi người để cuộc sống này trở nên tốt đẹp hơn.

 

THAM KHẢO:

Tình yêu thương đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống, đã có người nói rằng “nơi lạnh giá nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi thiếu vắng tình yêu thương”. Tình yêu thương đó là sự đồng cảm lòng nhân ái của con người đối với những số phận bất hạnh. Vậy tại sao con người sống để yêu thương? tình yêu thương là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội văn minh, phát triển, tình yêu thương sưởi ấm cho những trái tim nguội lạnh bị vùi dập bởi đau khổ. Con người cần phải biết yêu thương, đồng cảm sẻ chia với những số phận bất hạnh để xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp trong cuộc sống. Hãy để tình yêu thương lan tỏa gắn kết hàng triệu trái tim với nhau để cuộc sống chỉ có yêu thương mà không có những hận thù, đau khổ. Trong cuộc sống có rất nhiều người chọn cho mình cách thể hiện tình yêu thương đồng loại, bằng cách làm từ thiện. Nhờ những quỹ từ thiện mà nhiều trẻ em vùng sâu vùng xa được đi học được ăn uống đầy đủ, nhiều hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ, khích lệ động viên để vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên không phải ai cũng tin vào điều có thật, con người sống để yêu thương nhiều người ích kỷ không biết quan tâm đến mọi người xung quanh, không biết sẻ chia với những số phận bất hạnh, nhiều người lợi dụng tình thương để tạo nên danh tiếng của mình, bên cạnh đó một số người luôn ỷ lại dựa dẫm vào lòng tốt của người khác. Mỗi người trong chúng ta hãy biết phê phán những con người có những hành động, lối sống sai trái trên biết quan tâm sẻ chia với mọi người xung quanh để cuộc sống tốt đẹp hơn.

~HT~

18 tháng 5 2021

C2

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là người đã chèo lái con thuyền Cách mạng Việt Nam đồng thời Người cũng là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hoá thế giới. Tuy văn chương không phải sự nghiệp chính của cuộc đời Bác nhưng Hồ Chủ tịch đã để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm văn thơ có giá trị. Trong đó, "Nhật kí trong tù" là một tập thơ đặc sắc cả về mặt nội dung và nghệ thuật đặc biệt là bài "Chiều tối" với sự kết hợp hết sức hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại.

18 tháng 5 2021

Câu 1. (2 điểm)

"Cách mạng công nghiệp lần 4 mang đến cơ hội, và cũng đầy thách thức với nhân loại.".

Sử dụng câu văn trên là câu chủ đề, hãy viết tiếp khoảng 10 câu làm rõ cơ hội và thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với nhân loại.

          Cách mạng công nghệ 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các nhà máy thông minh, sự phát triển của internet vạn vật giúp tạo ra bản sao ảo của thế giới vật lý, cho phép mọi người ở khắp nơi trên thế giới kết nối với nhau thông qua mạng internet dịch vụ qua các thiết bị di động ở mọi lúc, mọi nơi. Công nghiệp 4.0 thúc đẩy chuyển đổi kỹ thuật số của sản xuất thông qua việc tích hợp các hệ thống và quy trình khác nhau . Có thể mở ra kỷ nguyên mới của đầu tư, giúp quá trình sản xuất nhanh hơn, tốn ít sức người, năng suất và chất lượng cuộc sống của con người được tăng cao: Mặt trái của Cách mạng Công nghiệp 4.0 là nó có thể gây ra sự bất bình đẳng. Đặc biệt là có thể phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp, nhất là những người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính, vận tải. Sau đó, những bất ổn về kinh tế nảy sinh từ Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến những bất ổn về đời sống. Hệ lụy của nó sẽ là những bất ổn về chính trị. Nếu chính phủ các nước không hiểu rõ và chuẩn bị đầy đủ cho làn sóng công nghiệp 4.0, nguy cơ xảy ra bất ổn trên toàn cầu là hoàn toàn có thể. Bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt con người vào nhiều nguy hiểm về tài chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân nếu không được bảo vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường. Cách mạng công nghiệp lần 4 mang đến cơ hội, và cũng đầy thách thức với nhân loại.

Câu 2: Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối - Hồ Chí Minh. 

                                                                    Bài làm

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là người đã chèo lái con thuyền Cách mạng Việt Nam đồng thời Người cũng là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hoá thế giới. Tuy văn chương không phải sự nghiệp chính của cuộc đời Bác nhưng Hồ Chủ tịch đã để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm văn thơ có giá trị. Trong đó, "Nhật kí trong tù" là một tập thơ đặc sắc cả về mặt nội dung và nghệ thuật đặc biệt là bài "Chiều tối" với sự kết hợp hết sức hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại.

                                      "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

                                   Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

                                       Cô em xóm núi xay ngô tối

                                       Xay hết lò than đã rực hồng"

"Nhật kí trong tù" là tập thơ gồm 134 bài thơ chữ Hán được sáng tác trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và đày ải đi khắp các nhà lao. Tập thơ đã thể hiện một cách sinh động phong cách thơ Hồ Chí Minh với sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại. Trước hết, nói đến màu sắc cổ điển trong thơ là nói đến các yếu tố về mặt nghệ thuật và nội dung có sự ảnh hưởng rõ nét của văn chương phương Đông mà chủ yếu là thơ Đường, còn màu sắc hiện đại là những cách tân về mặt nghệ thuật và nội dung mang tinh thần của thời đại. Lý giải về điều này trong thơ Bác, ta có thể hiểu, Hồ Chí Minh vốn xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, cha là nhà Nho, mẹ là người rất am hiểu ca dao, dân ca, nên Bác đã có những kế thừa hết sức tự nhiên. Bên cạnh đó với việc từng học trường Tây và có hơn 30 năm bôn ba nước ngoài, Bác đã học hỏi không ít từ văn học phương Tây và đưa chúng vào trong những tác phẩm của mình. Và với sự tài hoa trong ngòi bút, nét cổ điển và hiện đại ấy đã được kết hợp hết sức hài hoà.

          Trước tiên, nét cổ điển của bài thơ được thể hiện ở văn tự chữ Hán và thể thơ thất ngôn tứ tuyệt - một thể thơ tiêu biểu và quen thuộc của thơ Đường Trung Quốc, thể thơ đòi hỏi sự hàm xúc cô đọng, đó là lý do vì sao bài thơ với chỉ vỏn vẹn 28 chữ cũng đã miêu tả được cảnh vật thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, thi đề của bài thơ - cảnh vật thiên nhiên - cũng là một thi đề khá quen thuộc và được các thi nhân xưa sử dụng khá nhiều.

                                                   "Chim mỏi về rừng tìm chỗ ngủ

                                                Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không"

          Câu thơ mở ra khung cảnh rừng núi lúc về chiều. Cảnh vật có phần hiu quạnh được tác giả gợi ra qua biện pháp ước lệ quen thuộc của thơ cổ và đã nói lên chính xác hoàn cảnh của Bác. Chỉ bằng hai nét bút và điểm nhìn hướng lên cao, người tù đã dễ dàng thu vào tầm mắt mình hình ảnh "cánh chim bay" và "chòm mây trôi". Hai hình ảnh xuất hiện tự nhiên, hài hòa và đăng đối. Bút pháp chấm phá, nghệ thuật ước lệ tượng trưng được vận dụng sáng tạo. Không có bất kì từ ngữ nào chỉ thời gian nhưng người đọc vẫn cảm nhận được thời gian lúc này là chiều tối. Nhìn chim bay, mây trôi ta cảm thấy bầu trời lúc này bao la hơn, mênh mông, rợn ngợp hơn, nỗi cô đơn cũng vì thế mà tăng theo, cánh chim nhỏ nhoi cũng theo vậy mà nhỏ bé, đơn độc hơn. Bóng tối dường như theo cánh chim phủ lên vạn vật. Câu thơ gợi cho ta nhớ tới hình ảnh cánh chim trong thơ xưa khi tả cảnh chiều tối. Như Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã viết:

   "Chim hôm thoi thót về rừng

 Hay bậc nữ lưu tài danh của dân tộc - bà Huyện Thanh Quan cũng viết:

   "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi". 

Hoặc Lý Bạch - nhà thơ lớn của Trung Quốc viết trong "Độc tọa Kính Đình Sơn":

"Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn".

          Nếu cánh chim xưa của Lí Bạch như bay vút vào không gian, tan biến vào vĩnh hằng thì cánh chim trong thơ Bác chỉ chuyển trạng thái từ bay sang nghỉ ngơi để rồi lại tiếp tục bay. Đến đây, hình ảnh cánh chim lẻ loi và chòm mây cô đơn dường như đang mang theo nỗi lòng tác giả đi tới khắp mọi nơi mà Người đã đi qua cùng với sự đày ải cơ cực, tuy nhiên Người đã không san sẻ nỗi buồn đau của mình cho cảnh vật mà Người lại đồng cảm, hòa hợp với thiên nhiên tạo vật xung quanh mình. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy hiện lên một phong thái ung dung của một con người tuy bị mất tự do nhưng vẫn làm chủ bản thân trong mọi tình huống. Chính những điều này đã cho thấy vẻ đẹp hiện đại của thơ Bác ẩn chứa và hoà hợp ngay trong những thi liệu đậm chất cổ điển.

Đến hai câu thơ sau, bức tranh sinh hoạt thường nhật của con người nơi xóm núi đã được tái hiện rất chân thực.

"Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng"

          Nếu hai câu thơ đầu có phần ảm đạm hiu quạnh thì hai câu thơ sau với hình ảnh "cô em xóm núi xay ngô tối" đã toát lên một vẻ đẹp khoẻ khoắn, trẻ trung. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng truyền thống, dùng hình ảnh lò than để nói về bóng tối của không gian vùng sơn cước khi màn đêm buông xuống. Hình ảnh thơ vừa giản dị vừa độc đáo, làm nổi bật nét mới mẻ, hiện đại của bài thơ. Bên cạnh đó, hình tượng thơ cũng luôn vận động, hướng về tương lai, về ánh sáng: hình ảnh cánh chim bay, hình ảnh chòm mây trôi, hình ảnh người lao động làm việc hăng say, ngay cả thời gian cũng vận động từ chiều tối cho tới tối hẳn. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng vận động từ cô đơn, buồn bã sang vui tươi, hồ hởi. Cách miêu tả và quan sát của tác giả từ cao đến thấp, từ xa đến gần. Nhãn tự "hồng" của bài thơ có sức lan tỏa lớn. Sắc hồng nóng ấm của lò than đã xua tan đi bóng đêm và sự lạnh lẽo của núi rừng khi chiều tối, nhân lên niềm vui niềm lạc quan của con người, củng cố và mài sắc thêm ý chí của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nơi xa xứ.

          Bằng sự tài hoa trong ngòi bút của Hồ Chí Minh, vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã được hòa quyện hết sức hài hoà và nhuần nhuyễn, tạo nên phong cách thơ ca độc đáo của Bác và góp phần giúp người đọc hình dung đầy đủ và rõ nét chân dung Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, các biện pháp nghệ thuật được sử dụng rất sáng tạo: bút pháp chấm phá, ước lệ tượng trưng, vẽ mây nẩy trăng, lấy điểm tả diện, tả thực. Đọc bài thơ, chúng ta cũng cảm nhận được rằng, dù trong bất kì hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh vẫn luôn lạc quan, ung dung tự tại, luôn hướng về phía trước, về tương lai, luôn biết làm chủ bản thân trong mọi hoàn cảnh gian khó nhất.

Bài thơ bốn câu thơ vỏn vẹn 28 chữ với sự tài tình trong ngòi bút Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công bức tranh cảnh vật thiên nhiên và chân dung con người lao động nơi xóm núi. Đồng thời vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối đã mang đến cho tác phẩm cả nét truyền thống và mới mẻ, để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc cho đến mãi về sau này.

I. Đọc hiểu (3 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu.      Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần hai diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp...
Đọc tiếp

I. Đọc hiểu (3 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu.

     Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần hai diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Những yếu tố cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0  là trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối  và dữ liệu lớn (Big Data; robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, và công nghệ nano.

     Hiện Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu Âu, một phần châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt.

     Mặt trái của Cách mạng công nghiệp 4.0 là có thể gây ra sự bất bình đẳng. Đặc biệt là có thể phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp, nhất là những người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính, vận tải.

      Bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt con người vào nhiều nguy hiểm về tài chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân nếu không được bảo vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ luỵ khôn lường. Cách mạng công nghiệp lần 4 mang đến cơ hội, và cũng đầy thách thức với nhân loại. 

(Theo news.zing.vn 29/05/2017)

Câu 1. Đặt một nhan đề phù hợp với nội dung của văn bản. (0,5 điểm)

Câu 2. Nêu những đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0? Lấy một ví dụ ngoài văn bản về những biểu hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. (1,5 điểm)

Câu 3. “Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp”. Trước thực trạng ấy, anh/chị thấy mình cần phải làm như thế nào để chuẩn bị tốt nhất cho tương lai? (1 điểm)

32
18 tháng 5 2021

Câu 1. Đặt một nhan đề phù hợp với nội dung của văn bản. (0,5 điểm)

              Nhan đề: CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

Câu 2. Nêu những đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0? Lấy một ví dụ ngoài văn bản về những biểu hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. (1,5 điểm)

.-  Cuộc cách mạng lần hai diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt.

-  Cuộc cách mạng lần ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất.

- Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Những yếu tố cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0  là trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối  và dữ liệu lớn (Big Data; robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, và công nghệ nano.

Ví dụ: thẻ CCCD gắn chíp điện tử có độ bảo mật cao, dung lượng lưu trữ lớn, cho phép tích hợp nhiều ứng dụng đi kèm như: Ứng dụng chữ ký số, ứng dụng sinh trắc học, ứng dụng mật khẩu một lần… có thể được sử dụng và kết nối rộng rãi cho các dịch vụ công cộng và tư nhân.

             Dùng năng lượng mặt trời để làm nóng nước

 

Câu 3. “Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp”. Trước thực trạng ấy, anh/chị thấy mình cần phải làm như thế nào để chuẩn bị tốt nhất cho tương lai? (1 điểm)

Cần học tập  nhóm kỹ năng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) như năng lực giải quyết vấn đề dựa trên máy tính và các công cụ công nghệ.

Cần rèn nhóm các kỹ năng tư duy như sức sáng tạo, tư duy phản biện, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định, và khả năng tự học suốt đời.

Các  kỹ năng làm việc như khả năng giao tiếp và hợp tác làm việc theo nhóm.

Cuối cùng là kỹ năng sống (thích nghi) trong xã hội toàn cầu, bao gồm vấn đề ý thức công dân, cuộc sống và sự nghiệp, trách nhiệm cá nhân và xã hội, bao gồm cả vấn đề hiểu biết tính đa dạng văn hóa.

18 tháng 5 2021
Câu 1.     Nhan đề: CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC Câu 2.  -  Cuộc cách mạng lần hai diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. -  Cuộc cách mạng lần ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. - Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Những yếu tố cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0  là trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối  và dữ liệu lớn (Big Data; robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, và công nghệ nano. Ví dụ: thẻ CCCD gắn chíp điện tử có độ bảo mật cao, dung lượng lưu trữ lớn, cho phép tích hợp nhiều ứng dụng đi kèm như: Ứng dụng chữ ký số, ứng dụng sinh trắc học, ứng dụng mật khẩu một lần… có thể được sử dụng và kết nối rộng rãi cho các dịch vụ công cộng và tư nhân. - Dùng năng lượng mặt trời để làm nóng nước Câu 3. Cần học tập  nhóm kỹ năng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) như năng lực giải quyết vấn đề dựa trên máy tính và các công cụ công nghệ. Cần rèn nhóm các kỹ năng tư duy như sức sáng tạo, tư duy phản biện, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định, và khả năng tự học suốt đời. Các  kỹ năng làm việc như khả năng giao tiếp và hợp tác làm việc theo nhóm. Cuối cùng là kỹ năng sống (thích nghi) trong xã hội toàn cầu, bao gồm vấn đề ý thức công dân, cuộc sống và sự nghiệp, trách nhiệm cá nhân và xã hội, bao gồm cả vấn đề hiểu biết tính đa dạng văn hóa.
27 tháng 6 2021

Em ko trả lời đc nhưng xin phép hỏi anh (chị) 1 câu là tất cả HS trường Đại học Sư phạm Hà Nội, quận Cầu Giấy đều đc gọi là Quản lý đúng ko ạ? Với cả Quản lý đó là anh (chị) đc làm Quản lý hay bị quản lý ạ? Mong anh (chị) trả lời, em cảm ơn.

I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:           Thành công và thất bại chỉ đơn thuần là những điểm mốc nối tiếp nhau trong cuộc sống để tôi luyện nên sự trưởng thành của con người. Thất bại giúp con người đúc kết được kinh nghiệm để vươn tới chiến thắng và khiến những thành công đạt được thêm phần ý nghĩa. Không có ai luôn thành công hay...
Đọc tiếp

I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

          Thành công và thất bại chỉ đơn thuần là những điểm mốc nối tiếp nhau trong cuộc sống để tôi luyện nên sự trưởng thành của con người. Thất bại giúp con người đúc kết được kinh nghiệm để vươn tới chiến thắng và khiến những thành công đạt được thêm phần ý nghĩa. Không có ai luôn thành công hay thất bại, tuyệt đối thông minh hay dại khờ, tất cả đều phụ thuộc vào nhận thức, tư duy tích cực hay tiêu cực của mỗi người. Như chính trị gia người Anh, Sir Winston Churchill, từng nói: “Người bị quan nhìn thấy khó khăn trong mỗi cơ hội, còn người lạc quan nhìn thấy cơ hội trong mỗi khó khăn”. Sẽ có những người bị ám ảnh bởi thất bại, bị chúng bủa vây, che lấp những cơ hội dẫn tới thành công. Tuy nhiên, đừng sa vào vũng lầy bi quan đó, thất bại là một lẽ tự nhiên và là một phần tất yếu của cuộc sống. Đó là một điều bạn không thể tránh khỏi, nếu không muốn nói thực sự là trải nghiệm mà bạn nên có trong đời. Vì vậy, hãy thất bại một cách tích cực.

(Trích Thành công và thất bại, internet)

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2: Theo tác giả, thất bại sẽ giúp con người nhận thức được những điều gì?

Câu 3: Anh/chị hiểu như thế nào về lời khuyên “Hãy thất bại một cách tích cực.”

Câu 4: Điều anh/chị tâm đắc nhất qua đoạn trích là gì?

1

Câu 1 :Phương thức biểu đtạ chính là:Nghị luận

Câu 2:Theo tác giả:Thất bại giúp con người ta đúc kết kinh nghiệm để vươn tới chiến thắng và giúp thành công đạt thêm phần ý nghĩa.

Câu 3:Em hiểu câu"Hẫy thất bại một cách tích cực" là:Nếu ta thất bại một lần thì chúng ta có thể nhận được một số bài học và kinh nghiệm nhưng nếu ta thất bại nhiều thì bài học và kinh nghiệm đó sẽ nhân lên,nhân lên rất nhiều.Từ đó,ta có thể thành công với số bài học và kinh nghiệm đó.

Câu 4:Điều em tâm đắc nhất trong đoạn trích chính là:em đã có thêm những phần kiến thức bổ ích,tốt đẹp,nó sẽ giúp em vươn lên towisthanhf công từ những thất bại của mình!