K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

4 tháng 3

Có ai trả lời ko

5 tháng 3

Bài thơ "Khi mẹ vắng nhà" của Trần Đăng Khoa là một bức tranh sinh động, chân thực về cuộc sống sinh hoạt thường ngày của một gia đình nông thôn. Với lời thơ giản dị, gần gũi, tác giả đã vẽ nên một bức tranh sinh động về cuộc sống gia đình khi mẹ vắng nhà. Người con đảm đang, tháo vát, biết tự lo toan mọi việc. Những công việc nhà được miêu tả tỉ mỉ, chân thực, cho thấy sự quan sát tinh tế của tác giả. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương, quý trọng của người con dành cho mẹ. Dù mẹ vắng nhà, người con vẫn luôn nhớ đến mẹ, cố gắng làm mọi việc thật tốt để mẹ vui lòng. Câu nói "Không, mẹ ơi! Con đã ngoan đâu!" thể hiện sự khiêm tốn, đáng yêu của người con. Bài thơ được viết với giọng điệu hồn nhiên, trong sáng, phù hợp với tâm hồn trẻ thơ. Điều này thể hiện rõ qua cách xưng hô "con - mẹ" và những câu thơ ngắn gọn, dễ hiểu. "Khi mẹ vắng nhà" là một bài thơ hay, cảm động về tình cảm gia đình. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu thương của con dành cho mẹ mà còn ca ngợi sự đảm đang, tháo vát của những người con trong gia đình Việt Nam.

Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân. Vì chăm chỉ làm lụng nên bố mẹ tội cũng có bát ăn bát để, hi vọng sau này cho anh em tôi làm vốn sinh nhai. Nhưng rồi cha mẹ tôi mất đột ngột. Anh trai tôi đã không làm như lời cha mẹ dặn trước lúc lâm chung là chia đều tài sản cho hai anh em mà chiếm hết gia tài, chỉ để lại cho tôi một túp lều nhỏ và cây khế còi cọc ở góc vườn.Tôi chấp nhận...
Đọc tiếp

Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân. Vì chăm chỉ làm lụng nên bố mẹ tội cũng có bát ăn bát để, hi vọng sau này cho anh em tôi làm vốn sinh nhai. Nhưng rồi cha mẹ tôi mất đột ngột. Anh trai tôi đã không làm như lời cha mẹ dặn trước lúc lâm chung là chia đều tài sản cho hai anh em mà chiếm hết gia tài, chỉ để lại cho tôi một túp lều nhỏ và cây khế còi cọc ở góc vườn.

Tôi chấp nhận mà không hề kêu ca, than phiền gì. Hằng ngày, tôi phải mò cua bắt ốc, cày thuê, cuốc mướn để sống. Cây khế trở thành tài sản quý giá nhất và là người bạn thân thiết của tôi. Tôi chăm sóc nó chu đáo, tận tình như người bạn. Vì vậy mà cây khế lớn rất nhanh và chẳng bao lâu đã ra hoa kết quả. Đến mùa khế chín, những chùm khế chín vàng óng, thơm lừng báo hiệu một mùa khế bội thu. Không thể nào nói hết được niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình tôi. Tôi đã đan những chiếc sọt để ngày mai đem khế ra chợ đổi lấy gạo. Sáng hôm đó, khi vừa thức dậy, tôi đã nhìn thấy trên cây khế có một con chim to với bộ lông sặc sỡ đang ăn những quả khế chín. Lòng tôi đau như cắt. Tôi chạy đến dưới gốc cây và nói: “Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?”. Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời: “Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng”. Nói rồi chim bay đi. Tôi không tin lắm vào chuyện lạ lùng đó nhưng vẫn bảo vợ may cho mình một chiếc túi ba gang. Sáng hôm sau, chim đến từ sớm và đưa tôi ra một hòn đảo nhỏ giữa biển. Tôi không thể tin vào những gì hiện ra trước mắt. Cả hòn đảo toàn vàng bạc châu báu chất đống. Cả hòn đảo ánh lên màu vàng làm tôi bị lóa mắt. Không hề có một bóng người. Tôi cảm thấy lo sợ, cứ đứng yên một chỗ. Nhưng rồi chim vỗ cánh và giục giã: “Anh hãy lấy vàng bạc, châu báu vào túi, rồi tôi đưa về.”. Lúc đó tôi mới dám nhặt vàng cho vào đầy túi ba gang rồi lên lưng chim để trở về đất liền.

Từ đó, gia đình tôi không còn phải ăn đói mặc rách nữa. Tôi dựng một căn nhà khang trang ngay trong khu vườn, nhưng vẫn giữ lại túp lều và cây khế.

Tôi dùng số của cải đó chia cho những người dân nghèo khổ trong làng. Cũng không hiểu sao từ bữa đó, chim không còn đến ăn khế nữa. Cây khế bây giờ đã to lớn, toả bóng mát xuống cả một góc vườn. Mùa khế nào tôi cũng chờ chim thần đến để bày tỏ lòng biết ơn.

Tiếng lành đồn xa, câu chuyện lan đến tai người anh trai tôi. Một sáng, anh đến nhà tôi rất sớm. Đây là lần đầu tiên anh tới thăm tôi kể từ ngày bố mẹ mất. Anh đòi tôi đổi toàn bộ gia sản của anh lấy túp lều và cây khế. Tôi rất buồn khi phải chia tay với căn nhà và cây khế. Nhưng trước lời cầu khẩn của anh, tôi đành bằng lòng. Cả gia đình anh chuyển về túp lều cũ của tôi. Ngày nào anh cũng ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, anh tôi đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết và đòi chim phải trả vàng. Chim cũng hứa sáng mai sẽ đưa anh tôi ra đảo vàng và dặn may túi ba gang. Tối hôm đó, anh tôi thức cả đêm để may túi mười gang ngày mai đi lấy vàng. Sáng hôm sau, vừa ra tới đảo vàng, anh tôi đã hoa mắt bởi vàng bạc châu báu của hòn đảo. Anh tôi vội nhét vàng vào đầy túi mười gang, vào túi quần, túi áo và mồm cũng ngậm vàng nữa. Trên đường trở về nhà, chim nặng quá, kêu anh tôi vứt bớt vàng xuống biển cho đỡ nặng. Vốn tính tham lam, anh không những không vứt bớt xuống mà còn bắt chim bay nhanh hơn. Nặng quá, chim càng lúc càng mệt. Đôi cánh trở nên quá sức, yếu dần. Cuối cùng, không còn gắng được nữa, chim chao đảo rồi hất luôn anh tôi xuống biển cùng với số vàng.

Tôi trở lại sống ở nhà cũ, cùng túp lều và cây khế. Nhưng chim thần không bao giờ còn quay trở lại nữa… Anh trai tôi đã không thể quay trở về chỉ vì lòng tham vô đáy. Một nỗi buồn man mác dâng lên trong lòng tôi.Tôi mong các bạn không nên tham lam vì nếu không bị lòng tham hại mình

3

hay đó . tuyệt vời


13 tháng 3

Viết dài quá nhỉ. Mày chép mạng à


SỰ TÍCH QUẢ BẦU TIÊNNgày xửa, ngày xưa có một chú bé con nhà nghèo, nhưng vô cùng tốt bụng. Chú luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ, chăm sóc mọi người, mọi vật xung quanh mình. Vì thế cứ mỗi độ xuân về, chim chóc lại ríu rít kéo nhau tới làm tổ, hót vang quanh nhà chú bé.Một hôm có một con Cáo ở đâu mà tới bắt chim Én ở đầu nhà chú bé. Con Én non nớt bị rơi xuống đất gãy cánh. Chú bé...
Đọc tiếp

SỰ TÍCH QUẢ BẦU TIÊN

Ngày xửa, ngày xưa có một chú bé con nhà nghèo, nhưng vô cùng tốt bụng. Chú luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ, chăm sóc mọi người, mọi vật xung quanh mình. Vì thế cứ mỗi độ xuân về, chim chóc lại ríu rít kéo nhau tới làm tổ, hót vang quanh nhà chú bé.

Một hôm có một con Cáo ở đâu mà tới bắt chim Én ở đầu nhà chú bé. Con Én non nớt bị rơi xuống đất gãy cánh. Chú bé vội lao ra cứu con chim. Chú ôm ấp vỗ về con Én nhỏ, làm cho nó một cái tổ khác và chăm cho con Én ăn. Nhờ sự chăm sóc tận tình của chú bé, con Én đã khỏi đau.

Mùa thu đến khi nhìn lên trời thấy từng đàn Én hối hả bay đi tránh rét ở phương Nam, con Én nhỏ phân vân nửa muốn bay theo đàn, nửa lại lưu luyến không nỡ rời chú bé. Hiểu được lòng Én, chú bé âu yếm bảo: Én cứ bay theo đàn đi kẻo mùa đông lạnh lắm.

Đến mùa xuân ấm áp thì Én lại trở về với anh. Nói xong chú bé tung con Én nhỏ lên trời. Con Én đang chấp chới bay lên nền trời xanh biếc của mùa thu. Nó nhập vào một đàn Én lớn đang trên đường di cư về những xứ sở ấm áp ở phương Nam. Con Én nhỏ mau chóng tìm được niềm vui giữa bạn bè, nhưng nó không thể nào quên chú bé. Mùa xuân tươi đẹp đã tới. Con Én nhỏ tìm về ngôi nhà đơn sơ nhưng đầm ấm tình thương của chú bé. Nó kêu lên thành tiếng mừng vui khi thấy chú bé đang ngồi đan sọt giữa sân. Đôi cánh Én chao liệng sà xuống và Én thả trước mặt chú bé một hạt bầu. Chú bé vùi hạt bầu xuống đất. Chẳng bao lâu hạt bầu đã nảy mầm thành cây. Cây bầu lớn nhanh như thổi, ra hoa, kết quả. Nhưng lạ chưa, quả bầu to khổng lồ, cả nhà chú bé mới khiêng về được một quả, khi bổ ra Ôi! Thật kì diệu! Trong quả bầu đầy vàng bạc, châu báu và thức ăn ngon!

Tên địa chủ trong vùng nghe được chuyện ấy. Hắn cũng muốn được chim Én cho nhiều quả bầu tiên. Hắn bèn tìm cách bắt một con chim Én con rồi bẻ gãy cánh. Sau đó hắn giả vờ thương xót con Én rồi đem về nuôi. Đến mùa thu, khi nhìn lên trời thấy đàn Én đầu tiên xuất hiện, hắn vội vàng ném con Én lên trời và bảo: Bay đi Én con! Mau đi kiếm hạt bầu tiên về đây cho ta! Con Én khốn khổ bay đi. Mùa xuân năm sau nó cũng trở về và đem theo một hạt bầu. Tên địa chủ hí hửng đem gieo và ngày đêm canh giữ. Khi quả bầu đã già, hắn bảo mọi người khiêng về rồi đuổi tất cả ra. Hắn đóng cửa lại rồi một mình hắn bổ quả bầu tiên. Quả bầu vừa được bổ ra, vàng bạc chẳng có, chỉ có rắn rết. Rắn rết từ trong quả bầu xông ra cắn chết tên địa chủ tham lam độc ác.   

Câu 1: Qua truyện Sự tích quả bầu tiên, em hãy rút ra bài học mình tâm đắc nhất? (Trả lời từ 3-5 câu văn).

0

Dưới đây là đoạn văn 200 chữ về bài thơ Gọi điện cho bố:


Bài thơ Gọi điện cho bố là một tác phẩm đầy cảm xúc về tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cha con. Bài thơ kể về một người con gọi điện cho bố để hỏi thăm, chia sẻ những điều trong cuộc sống. Qua từng câu chữ, ta cảm nhận được sự quan tâm, lo lắng của người cha dành cho con và ngược lại. Dù không ở gần nhau, nhưng sự kết nối qua chiếc điện thoại đã giúp hai cha con gần gũi hơn. Bài thơ nhắc nhở chúng ta rằng tình cảm gia đình là điều thiêng liêng, dù bận rộn đến đâu cũng đừng quên hỏi thăm, quan tâm đến cha mẹ. Đôi khi, chỉ một cuộc gọi đơn giản cũng đủ khiến người thân vui vẻ, ấm lòng. Qua đó, tác giả muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu thương và sự trân trọng những phút giây bên gia đình. Bài thơ không chỉ mang ý nghĩa sâu sắc mà còn giúp ta nhận ra rằng, dù cuộc sống có thay đổi, tình cảm cha con vẫn luôn bền chặt.

7 tháng 3

Bài thơ Em yêu trường em của Lan Vương mang đến cho người đọc cảm giác thân thuộc, gần gũi về mái trường – nơi lưu giữ những kỷ niệm tuổi thơ tươi đẹp. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình yêu tha thiết của một học sinh dành cho trường lớp, thầy cô và bạn bè.
Qua những hình ảnh quen thuộc như sân trường, hàng cây, lớp học, tiếng trống, bài thơ khơi gợi trong lòng người đọc sự trân trọng đối với quãng thời gian cắp sách đến trường. Không chỉ là nơi học tập, mái trường còn là ngôi nhà thứ hai, là nơi nuôi dưỡng ước mơ, dạy ta những bài học đầu đời.
Bên cạnh đó, bài thơ còn nhấn mạnh sự gắn bó sâu sắc giữa con người với không gian tuổi thơ của mình. Khi đọc, ta có thể thấy mình trong đó, nhớ về những năm tháng học trò với bao niềm vui, nỗi buồn và những kỷ niệm không thể phai mờ.
Tóm lại, Em yêu trường em không chỉ đơn thuần là một bài thơ thiếu nhi mà còn là lời nhắc nhở mỗi người về sự biết ơn và yêu quý mái trường – nơi chắp cánh cho bao ước mơ bay xa.


-cô bé nấm-