K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 3

Ngày xưa, Vua Hùng Vương thứ 18 có nuôi một đứa trẻ thông minh khôi ngô, đặt tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm.

Lớn lên, vua cưới vợ cho An Tiêm, và tin dùng ở triều đình. Cậy nhờ ơn Vua cha, nhưng An Tiêm lại kiêu căng cho rằng tự sức mình tài giỏi mới gây dựng được sự nghiệp, chứ chẳng nhờ ai. Lời nói này đến tai vua. Vua cho là An Tiêm là kẻ kiêu bạc vô ơn, bèn đầy An Tiêm cùng vợ con ra một hòn đảo xa, ở ngoài biển Nga Sơn (Thanh Hóa, Bắc Việt).

Người vợ là nàng Ba lo sợ sẽ phải chết ở ngoài cù lao cô quạnh. Nhưng An Tiêm thì bình thản nói: "Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta, việc gì phải lo".

Hai vợ chồng An Tiêm cùng đứa con đã sống hiu quạnh ở một bãi cát, trên hoang đảo. Họ ra sức khai khẩn, trồng trọt để kiếm sống. Một ngày kia, vào mùa hạ, có một con chim lạ từ phương tây bay đến đậu trên một gò cát. Chim nhả mấy hạt gì xuống đất. Được ít lâu, thì hạt nẩy mầm, mọc dây lá cây lan rộng.

Cây nở hoa, kết thành trái to. Rất nhiều trái vỏ xanh, ruột đỏ. An Tiêm bảo vợ: "Giống cây này tự nhiên không trồng mà có. Tức là vật của Trời nuôi ta đó". Rồi An Tiêm hái nếm thử, thấy vỏ xanh, ruột đỏ, hột đen, mùi vị thơm và ngon ngọt, mát dịu. An Tiêm bèn lấy hột gieo trồng khắp nơi, sau đó mọc lan ra rất nhiều.

Một ngày kia, có một chiếc tầu bị bão dạt vào cù lao. Mọi người lên bãi cát, thấy có nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đó, tiếng đồn đi là có một giống dưa rất ngon ở trên đảo. Các tầu buôn tấp nập ghé đến đổi chác đủ thứ vật dụng và thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống phong lưu.

Vì chim đã mang hột dưa đến từ phương Tây, nên An Tiêm đặt tên cho thứ trái cây này là Tây Quạ Người Tầu ăn thấy ngon, khen là "hẩu", nên về sau người ta gọi trại đi là Dưa Hấu.

Ít lâu sau, Vua sai người ra cù lao ngoài biển Nga Sơn dò xét xem gia đình An Tiêm ra làm sao, sống hay chết. Sứ thần về kể lại cảnh sống sung túc và nhàn nhã của vợ chồng An Tiêm, nhà vua ngẫm nghĩ thấy thầm phục đứa con nuôi, bèn cho triệu An Tiêm về phục lại chức vị cũ trong triều đình.

An Tiêm đem về dâng cho Vua giống dưa hấu mà mình may mắn có được. Rồi phân phát hột dưa cho dân chúng trồng ở những chỗ đất cát, làm giầu thêm cho xứ Việt một thứ trái cây danh tiếng. Hòn đảo mà An Tiêm ở, được gọi là Châu An Tiêm.


"Sự tích dưa hấu" là một truyện cổ tích Việt Nam nổi tiếng, kể về nguồn gốc của quả dưa hấu. Câu chuyện không chỉ hấp dẫn bởi tình tiết li kì, mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Tóm tắt cốt truyện:

Mai An Tiêm, con nuôi của vua Hùng, bị vua cha đày ra đảo hoang vì dám nói "của biếu là của lo, của cho là của nợ". Tại đây, An Tiêm và gia đình đã phải trải qua những ngày tháng khó khăn, thiếu thốn. Một ngày nọ, An Tiêm nhặt được một hạt giống lạ do chim mang đến. Anh gieo trồng và thu được những quả dưa hấu ngọt mát. Từ đó, dưa hấu trở thành nguồn sống của gia đình An Tiêm và lan rộng ra khắp nơi.

Phân tích các khía cạnh của truyện:

  • Ý nghĩa về tinh thần tự lực, tự cường:
    • An Tiêm là hình tượng của người lao động cần cù, sáng tạo, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh.
    • Câu chuyện đề cao tinh thần tự lực, tự cường, dám đương đầu với khó khăn để tạo dựng cuộc sống.
  • Ý nghĩa về lòng biết ơn:
    • An Tiêm biết ơn những gì mình có, dù là nhỏ bé nhất.
    • Câu chuyện nhắc nhở chúng ta trân trọng những thành quả lao động, biết ơn những gì mình nhận được.
  • Ý nghĩa về sự lan tỏa của cái đẹp, cái tốt:
    • Dưa hấu, từ một loại quả lạ, đã trở thành một loại quả ngon, được mọi người yêu thích.
    • Câu chuyện thể hiện niềm tin vào sự lan tỏa của cái đẹp, cái tốt trong cuộc sống.
  • Giá trị văn hóa:
    • "Sự tích dưa hấu" là một phần của kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, thể hiện những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
    • Câu chuyện góp phần giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần lao động, lòng biết ơn và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

Đặc sắc nghệ thuật:

  • Cách kể chuyện giản dị, gần gũi, phù hợp với văn hóa dân gian.
  • Sử dụng nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo, tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện.
  • Xây dựng hình tượng nhân vật An Tiêm với những phẩm chất tốt đẹp, được người đọc yêu mến.

"Sự tích dưa hấu" là một câu chuyện cổ tích đầy ý nghĩa, mang đến cho người đọc những bài học quý giá về cuộc sống.

23 tháng 3

Ở bài văn, người con đã thấy xu thẻ

21 tháng 3

Cảm nghĩ của em về hình ảnh cây tre

Cây tre chính là biểu tượng của làng quê Việt Nam. Cây tre chính là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của người dân. Từ lâu, bóng tre xanh đã bao trùm lên âu yếm bản làng, xóm, thôn. Dưới bóng tre đã giữ gìn một nền văn hóa lâu đời, con người dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre là cánh tay của người nông dân. Không chỉ trong đời sống vật chất hay tinh thần, tre còn trở thành đồng chí của với con người trong chiến tranh. Nhân dân ta đã dùng tre làm vũ khí đánh giặc. Trong quá khứ, chúng ta không thể quên được hình ảnh Thánh Gióng đã nhổ bụi tre để đánh đuổi giặc Ân. Ở hiện tại, tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre đã giúp nhân dân ta giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh.Tre mang những vẻ đẹp phẩm chất mà con người Việt Nam có được. Dù ở trong quá khứ hay hiện tại, cây tre cũng gắn bó vô cùng với con người Việt Nam. Qua văn bản “Cây tre Việt Nam”, người đọc thêm yêu mến hình ảnh cây tre.

Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi? Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi! Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu c1 bài thơ trên đc viết...
Đọc tiếp

Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi? Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi! Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu c1 bài thơ trên đc viết theo thể thơ nào c2 chỉ rõ dấu hiệu đê nhận biết về thể thơ trog đoạn thơ trên c3 tìm các từ láy có trog đoạn thơ và giải thích nghĩa của từ lấy vừa tìm đc c4 nêu nội dung chính của đoạn thơ trên và qua đó ta hiểu được tình cảm gì của tác giả với quê hương c5 xác định thán từ trog câu thơ sau và cho biết chức năng của thán từ đó ( hỡi con sông đã tắm cả đời tôi 0 c6 chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp nhân hóa trog 2 câu thơ sau : Quê hương tôi có có con sông xanh biếc Nước gương trog soi tóc những hàng tre c7 đoạn thơ trên đã khơi gợi trog em tình cảm j vs quê hương ( 4-5 câu văn )

0
Đọc văn bản sau:                   Lúa chín       Đồng chiêm phả nắng lên không Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng       Gió nâng tiếng hát chói chang  Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.                   Gặt lúa       Tay nhè nhẹ chút người ơi Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng       Dễ rơi là hạt đầu bông Công một nén, của một đồng là đây.      ...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

                  Lúa chín

      Đồng chiêm phả nắng lên không

Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng

      Gió nâng tiếng hát chói chang

 Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.

                  Gặt lúa

      Tay nhè nhẹ chút người ơi

Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng

      Dễ rơi là hạt đầu bông

Công một nén, của một đồng là đây.

                  Tuốt lúa

      Mảnh sân trăng lúa chất đầy

Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình

      Rơm vò từng búi rối tinh

Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi.

                  Phơi khô

      Nắng non mầm mục mất thôi

Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn

       Nắng già hạt gạo thêm ngon

Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho.

                  Quạt sạch

      Cám ơn cơn gió vô tư

Quạt đi vù vù rác rưởi vương rơi

      Hạt nào lép cứ bay thôi

Gió lên cho lúa sáng ngời mặt gương!

(1)    Một bức tranh về mùa gặt ở nông thôn miền Bắc những năm hợp tác hóa nông nghiệp đã được nhà thơ Nguyễn Duy miêu tả bằng những nét không thể lẫn. Một mùa vàng bát ngát với những cánh đồng lúa chín, với cái nắng tháng năm chói chang, với liềm hái và những cánh cò, với tiếng máy tuốt lúa rộn rã đêm trăng,.... Tất cả tạo nên một không khí đầm ấm, thanh bình mà ta đã từng gặp những nơi thôn quê khi mùa gặt đến.

(2)    […] Đây là không gian mùa gặt. Cái nắng gắt gao hình như không phải từ trên trời xuống, mà như ngược lại được "phả" từ cánh đồng lên: đồng lúa rộng quá, màu vàng của lúa chín còn sáng ngợp hơn cả nắng trời, đến nỗi nó làm đảo lộn cả tương quan của tự nhiên trong cảm nhận của con người. Chỉ nội một chữ “phả” đã gợi được không gian và cái nóng hầm hập của thời tiết. Người ta vẫn nói “cánh cò chở nắng”, còn ở đây nhà thơ thấy cánh cò dẫn gió. Hình ảnh có sự khác nhau, nhưng ấn tượng mà nó đem đến chỉ là một: thiên nhiên chợt có hồn trong một cánh cò mải miết bay ngang. Gió đã có hồn, nó nâng tiếng hát hay chính nó là tiếng hát ấy trên vòm cao chói chang? Đến những lưỡi hái cũng sáng lên như những tia chớp nhỏ, cần mẫn “liếm ngang chân trời”. Bốn dòng thơ trong khổ đầu, cứ một dòng gợi ý niệm cao, lại một dòng gợi ý niệm rộng. Sự kết hợp giữa chúng mở ra một không gian rộng lớn và sống động của những ngày mùa gặt hái nơi đồng quê.

(3)    Chưa hết, không gian mùa gặt không chỉ được mở ra trên những cánh đồng ban ngày, nó còn hiện lên ở trong thôn xóm buổi đêm: “Mảnh sân trăng lúa chất đầy/ Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình”. Cái sân nông thôn ngày thường rộng thế, nói “sân trăng” thì còn rộng hơn nữa. Cái rộng rãi, đẹp của ánh trăng ngàn đời nơi thôn dã đã gặp gỡ vẻ đẹp của sự no ấm nơi đây, nhường chỗ cho những đồng lúa chất cao ngồn ngộn một vẻ rất đời thường. Hơn thế nữa, những náo nức của mùa gặt đã đánh thức cả ánh trăng vốn tĩnh lặng; dưới ánh trăng, trong nhịp máy quay rộn ràng, những hạt lúa chín mẩy chảy tràn trông như thể “vàng tuôn”. Câu thơ có vẻ sáo, nhưng bù lại, nó đã thể hiện rất hồn nhiên cái tình cảm của một anh nhà nghèo, xoa tay sung sướng trước những thành quả do mình làm ra.

(4)    Ấy vậy nhưng người nông dân ở nhà thơ Nguyễn Duy lại rất hay “cả nghĩ”. Luôn có hai thái cực song hành trong tình cảm của người ấy. Xôn xao náo nức là thế khi mùa gặt đến, nhưng tự đáy lòng mình, người ấy vẫn đắm xuống trong một tình cảm lo xa. Thành quả ấy, “của một đồng, công một nén là đây”, cho nên mới phải thốt lên: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi/ Trông đôi hạt rụng, hạt rơi xót lòng”. Chuyện đời lúa, đời người cứ lẫn vào nhau, đến nỗi nhìn những bó rơm bị vò nát mà cũng thấy “Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi!”. Lại cả những lo xa đã có từ ngàn đời nảy sinh trên luống cày, vẫn cứ còn nung nấu: “Nắng non mầm mục mất thôi/ Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn”.

    […]

(Trần Hòa Bình, Tiếng hát mùa gặt của Nguyễn Duy, Thơ với lời bình, Nhiều tác giả, tập 2, NXB Giáo dục, 1996)

* Trần Hoà Bình (1956 – 2008) sinh ra tại Hà Tây, là nhà báo, nhà thơ. Ông còn là chuyên gia tâm lý sâu sắc và hóm hỉnh với những lời gỡ rối tâm tình giúp độc giả với bút danh Tầm Thư. Trần Hoà Bình là người đàn ông đa tài. Ông viết báo, làm thơ, vẽ, giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm 2, Học viện Báo chí & Tuyên truyền. Và chỉ với bài thơ Thêm một, Trần Hòa Bình ghi tên mình như một thi sĩ tài hoa trên thi đàn Việt Nam đương đại.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản trên bàn về vấn đề gì?

Câu 2. Xác định câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3).

Câu 3. Xác định thành phần biệt lập trong những câu sau:

a. Cái nắng gắt gao hình như không phải từ trên trời xuống, mà như ngược lại được "phả" từ cánh đồng lên: đồng lúa rộng quá, màu vàng của lúa chín còn sáng ngợp hơn cả nắng trời, đến nỗi nó làm đảo lộn cả tương quan của tự nhiên trong cảm nhận của con người.

b. Thành quả ấy, “của một đồng, công một nén là đây”, cho nên mới phải thốt lên: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi/ Trông đôi hạt rụng, hạt rơi xót lòng”.

Câu 4. Đoạn (2) sử dụng những cách trích dẫn bằng chứng nào? Tác dụng của việc dùng cách trích dẫn ấy là gì?

Câu 5. Các lí lẽ và bằng chứng được dùng trong đoạn (4) có vai trò như thế nào trong việc thể hiện luận điểm của đoạn văn này?

Câu 6. Em thích nhất điều gì trong nghệ thuật nghị luận của tác giả? Vì sao?

2
18 tháng 3

Câu 1: Văn bản trên bàn về vấn đề gì? Văn bản bàn về vẻ đẹp của mùa gặt ở nông thôn miền Bắc Việt Nam, đồng thời khắc họa cảm xúc và tâm tư của người nông dân qua các giai đoạn của mùa gặt như gặt lúa, tuốt lúa, phơi khô, và quạt sạch.

Câu 2: Xác định câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3). Câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3) là: “Không gian mùa gặt không chỉ được mở ra trên những cánh đồng ban ngày, nó còn hiện lên ở trong thôn xóm buổi đêm.”

Câu 3: Xác định thành phần biệt lập trong các câu sau: a. Thành phần biệt lập: “hình như” (thành phần tình thái). b. Thành phần biệt lập: “ấy”, “của một đồng, công một nén là đây” (thành phần tình thái và thành phần giải thích).

Câu 4: Đoạn (2) sử dụng những cách trích dẫn bằng chứng nào? Tác dụng của việc dùng cách trích dẫn ấy là gì?

  • Cách trích dẫn: Đoạn (2) trích dẫn trực tiếp các hình ảnh và từ ngữ tiêu biểu từ bài thơ như “phả từ cánh đồng lên”, “cánh cò dẫn gió”, và “liếm ngang chân trời”.
  • Tác dụng: Việc trích dẫn này làm nổi bật sự sinh động của không gian mùa gặt, đồng thời tăng tính thuyết phục cho luận điểm khi kết hợp phân tích ngôn ngữ giàu hình ảnh của bài thơ.

Câu 5: Các lí lẽ và bằng chứng được dùng trong đoạn (4) có vai trò như thế nào trong việc thể hiện luận điểm của đoạn văn này?

  • Vai trò: Các lí lẽ và bằng chứng trong đoạn (4) làm rõ tính cách “cả nghĩ” của người nông dân. Tâm lý xót xa, lo toan được nhấn mạnh qua các câu thơ trích dẫn như: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi” và “Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi!”. Những lí lẽ này không chỉ thể hiện chiều sâu trong cảm xúc của người nông dân mà còn làm nổi bật sự gắn bó giữa đời người và đời lúa, qua đó khẳng định sự cần mẫn và ân cần trong lao động.

Câu 6: Em thích nhất điều gì trong nghệ thuật nghị luận của tác giả? Vì sao?

  • Điều yêu thích: Em thích nhất cách tác giả phân tích và bình luận dựa trên các hình ảnh và ngôn từ giàu cảm xúc của bài thơ.
  • Lý do: Cách phân tích vừa gần gũi, vừa sâu sắc, giúp người đọc hình dung rõ ràng không gian mùa gặt và cảm nhận được cái hồn của bài thơ cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Tác giả còn kết hợp được cả tình cảm chân thành, tạo nên sự lôi cuốn đặc biệt.
18 tháng 3

Cô tick cho em nhé