*Bài tập số 9: (Trắc nghiệm)
Từ nào sau đây là từ phức?
A. một hôm B. một tháng C. dũng cảm D. một, hai
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bài thơ bốn chữ và năm chữ mang lại cho em những cảm xúc thật giản dị và gần gũi. Những câu thơ ngắn gọn, nhịp nhàng đã khắc họa sinh động những hình ảnh thiên nhiên, con người, hay tình cảm gia đình, bè bạn bằng ngôn từ mộc mạc nhưng đầy ý nghĩa. Với những bài thơ bốn chữ, nhịp thơ thường đều đặn, gợi cảm giác nhẹ nhàng, trong trẻo, khiến em như lạc vào thế giới yên bình, êm đềm. Còn với thể thơ năm chữ, dòng thơ có thêm nhịp điệu phong phú, lời thơ trở nên sâu sắc hơn, làm em cảm nhận rõ nét hơn về tình yêu quê hương, đất nước, về những nỗi niềm suy tư của con người. Dù là bốn chữ hay năm chữ, những câu thơ ngắn gọn đó chứa đựng cả một thế giới cảm xúc, giúp em thấy yêu hơn vẻ đẹp của thơ ca Việt Nam và trân trọng sự tinh tế trong từng câu chữ.
tham khảo:
Người ta thường tả vẻ đẹp của rừng thông, rừng trúc, rừng dừa,… ít ai nghĩ đến vẻ đẹp của rừng cọ. Nhưng bài thơ của Nguyễn Viết Bình cho ta thấy rừng cọ có vẻ đẹp thật độc đáo.
Khi có mưa, rừng cọ có vẻ đẹp hoang sơ và dữ dội:
Như tiếng thác dội về
Như ào ào trận gió.
Đây là cảm giác rất đặc trưng ở rừng cọ khi có mưa rào. Tàu cọ to và cứng như miếng tôn, khi hạt mưa dội vào tạo nên âm thanh lộp độp rất lớn. Mưa nhỏ mà tưởng như mưa to. Nếu mưa rào xối xả thì tiếng mưa tạo thành một dòng chảy âm thanh dữ dội, giống như tiếng thác đổ về, như ào ào trận gió. Thành ngữ Mưa rừng cọ, gió rừng thông là để diễn tả sự cộng hưởng của lá các loài cây này với mỗi hạt mưa,làn gió.
Vào những trưa hè, mỗi cây cọ như một cái ô lớn toả bóng. Nếu cả một rừng cọ dày thì như có một bầu trời xanh thứ hai, người lên rừng cọ khoan khoái thả mình trên thảm cỏ mà nhìn bầu trời xanh mát rượi này.
Những buổi sáng sớm, ánh mặt trời chiếu lên những tàu cọ tạo màu xanh óng ánh, các răng cưa to bản của lá như những tia nắng mặt trời toả ra bốn phương. Đấy là hình ảnh đẹp nhất của cây cọ khiến cho tác giả gọi đó là “Mặt trời xanh của tôi”.
Trần Nhân Tông, tên thật là Trần Khâm, chào đời vào ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông là con trai trưởng của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều và vua Trần Thánh Tông. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Khâm từ khi sinh ra đã có “sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng”, vì thế vua cha và ông nội, Thái thượng hoàng Trần Thái Tông, đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử. Trên vai trái của ông có một nốt ruồi đen lớn như hạt đậu, người xem tướng đoán rằng ông sẽ làm nên việc lớn.
Năm 1274, khi Trần Khâm 16 tuổi, vua cha đã phong ông làm Hoàng thái tử, mặc dù ông từ chối ngôi vị nhưng vua cha không đồng ý. Sau đó, vua Trần Thánh Tông cũng quyết định lập con gái cả của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Thái tử phi cho Trần Khâm. Mặc dù có cuộc sống gia đình hạnh phúc, ông vẫn yêu thích tu hành. Ông nghiên cứu kỹ về tam giáo Phật – Lão – Nho, đồng thời đạt trình độ cao trong các lĩnh vực khác như quân sự, lịch số học, thiên văn học và âm nhạc.
Với chí hướng xuất gia theo Phật, ông nhiều lần xin nhường ngôi Thái tử cho em là Trần Đức Việp nhưng không được vua cha chấp thuận. Một lần, vào đêm khuya, ông vượt thành đi vào núi Yên Tử. Khi vua Trần Thánh Tông và Hoàng hậu biết tin, họ sai quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô. Ông miễn cưỡng quay về cung thành.
Năm 1278, ông lên ngôi và lấy niên hiệu là Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, khi đó, độc lập của Đại Việt đang bị đe dọa bởi quân Nguyên – Mông từ phương Bắc. Vì thế, khi quân Nguyên – Mông xâm lược, ông gác lại việc tu học Phật pháp, sử dụng tài mưu lược sáng suốt và khả năng đoàn kết toàn dân để đánh giặc. Kết quả, ông cùng các tướng lĩnh đã hai lần đánh tan quân Nguyên – Mông, bảo vệ bờ cõi nước nhà.
Năm 1293, sau 14 năm trị vì, ông nhường ngôi cho Trần Thuyên (vua Trần Anh Tông sau này). Đến tháng 10 năm 1299, ông xuất gia tu hành tại núi Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay), lấy hiệu là Trúc Lâm đại đầu đà, trở thành thủy tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Từ năm 1298, ông mặc áo nhà sư và đi thuyết pháp. Lý thuyết Phật giáo nhập thế do ông khởi xướng đề cao tính giáo dục lòng nhân đạo và luôn nhớ đến cội nguồn, chứ không kêu gọi tín đồ lìa bỏ cuộc sống trần tục, cũng không ép tu hành khổ hạnh. Buổi giảng kinh của ông thu hút hàng nghìn người đến nghe và tiếp thu tư tưởng.
Năm 1308, Trần Nhân Tông qua đời tại am Ngọa Vân trên núi Yên Tử. Với những đóng góp to lớn cho dân tộc và sự phát triển rực rỡ của triết học Phật giáo Việt Nam, ông được người đời suy tôn là Phật hoàng Trần Nhân Tông, tức vua Phật của Việt Nam.
Sau khi từ bỏ ngai vàng, Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử tu hành, khoác áo cà sa và đi thuyết pháp khắp nơi. Ông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, với tư tưởng cốt lõi là Phật giáo nhập thế. Với tài năng khéo léo, ông đã gắn kết một cách hài hòa giữa đạo và đời, hết lòng vì sự phát triển của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân Tông sáng lập mang đậm tinh thần dấn thân vào cuộc sống. Khi tu hành, ông dung hợp ba dòng thiền lớn là Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Đồng thời, ông kết hợp tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo, thể hiện lòng từ bi với tinh thần cởi mở và không phân biệt.
Trần Nhân Tông dành trọn đời mình cho tư tưởng đạo Phật Việt Nam, đồng thời cũng bảo vệ nền độc lập của đất nước. Với những công lao kiệt xuất trong cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển dân tộc, ông được ghi danh là một trong tám vị anh hùng của Việt Nam. Sự nghiệp tu hành và tư tưởng nhập thế của Trần Nhân Tông không chỉ để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Phật giáo mà còn góp phần quan trọng vào sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
Phật hoàng Trần Nhân Tông là một vị hoàng đế anh minh, lãnh đạo đất nước Đại Việt vượt qua những cuộc xâm lăng khốc liệt của quân Nguyên – Mông, là một nhà tu hành xuất sắc, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền mang đậm bản sắc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là minh chứng rõ ràng cho sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, giữa việc tu hành và trách nhiệm với đất nước và nhân dân. Với tư tưởng nhập thế và lòng từ bi vô hạn, ông đã truyền cảm hứng và để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Phật giáo cũng như trong lòng người dân Việt Nam. Trần Nhân Tông là một biểu tượng của lòng yêu nước, trí tuệ và đức hạnh, mãi mãi được người đời tôn kính và ngưỡng mộ.
C
Từ nào sau đây là từ phức?
A. một hôm B. một tháng C. dũng cảm D. một, hai