Nêu những hiểu biết của em về đại dịch Corona ( Covid - 19 ) Cách phòng bệnh trên thế giới và nước Việt Nam nhé mn.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Câu 1. Đọc đoạn văn sau:
Về đêm, cảnh vật thật im lìm. Sông thôi vỗ sóng dồn dập vô bờ như hồi chiều. Hai ông bạn già vẫn trò chuyện. Ông Ba trầm ngâm. Thỉnh thoảng ông mới đưa ra một nhận xét dè dặt. Trái lại, ông Sáu rất sôi nổi. Ông hệt như Thần Thổ Địa của vùng này.
Theo TRẦN MỊCH
Chú thích và giải nghĩa:
Thần Thổ Địa (Thổ Công): vị thần coi giữ đất đai ở một khu vực (theo quan niệm dân gian); người thông thạo mọi việc trong vùng.
Giải câu 2 (Trang 29 SGK tiếng việt 4 tập 2)
Tìm các câu kể Ai thế nào? trong đoạn văn.
Trả lời:
Đó là các câu:
– Về đêm, cảnh vật thật im lìm.
– Sông thôi vỗ sóng dồn dập vô bờ như hồi chiều.
– Ông Ba trầm ngâm.
– Trái lại, ông Sáu rất sôi nổi.
– Ông hệt như Thần Thổ Địa của vùng này.
Giải câu 3 (Trang 29 SGK tiếng việt 4 tập 2)
Xác định chủ ngữ, vị ngữ của những câu vừa tìm được.
Trả lời:
Các câu trên có chủ ngữ và vị ngữ như sau:
Chủ ngữ | Vị ngữ |
Cảnh vật | thật im lìm. |
Sông | thôi vỗ sóng dồn dập vô bờ như hồi chiều. |
Ông Ba | trầm ngâm. |
Ông Sáu | rất sôi nổi. |
Ồng | hệt như Thần Thổ Địa của vùng này. |
Giải câu 4 (Trang 29 SGK tiếng việt 4 tập 2)
Vị ngữ trong các câu trên biểu thị nội dung gì? Chúng do những từ ngữ như thế nào tạo thành?
Trả lời:
– Vị ngữ trong các câu trên biểu thị đặc điểm, trạng thái hoặc tính chất của sự vật được nói đến ở chủ ngữ.
– Các vị ngữ trên được tạo thành bởi các tính từ, động từ hoặc cụm tính từ.
II. Luyện tập
Giải câu 1 – Luyện tập (Trang 30 SGK tiếng việt 4 tập 2)
Đọc và trả lời câu hỏi:
Cánh đại bàng rất khỏe. Mỏ đại bàng dài và rất cứng. Đôi chân của nó giống như cái móc hàng của cần cẩu. Đại bàng rất ít bay. Khi chạy trên mặt đất, nó giống như một con ngỗng cụ nhưng nhanh nhẹn hơn nhiều.
Theo THIÊN LƯƠNG
a) Tìm các câu kể Ai thế nào? trong đoạn văn.
b) Xác định vị ngữ của các câu trên.
c) Vị ngữ của các câu trên do những từ ngữ nào tạo thành?
Trả lời:
a) Đó là các câu:
– Cánh đại bàng rất khỏe.
– Mỏ đại bàng dài và rất cứng.
– Đôi chân của nó giống như cái móc hàng của cần cẩu.
– Đại bàng rất ít bay.
– Khi chạy trên mặt đất, nó giống như một con ngỗng cụ nhưng nhanh nhẹn hơn nhiều.
b) Vị ngữ của các câu trên là:
– rất khỏe
– dài và rất cứng
– giống như cái móc hàng của cần cẩu – rất ít bay
– giống như một con ngỗng cụ nhưng nhanh nhẹn hơn nhiều.
c) Vị ngữ của các câu trên do các tính từ, các cụm tính từ, cụm động từ tạo thành.
Giải câu 2 – Luyện tập (Trang 30 SGK tiếng việt 4 tập 2)
Đặt 3 câu kể Ai thế nào?, mỗi câu tả một cây hoa mà em yêu thích.
Trả lời:
– Hoa hồng luôn rực rỡ.
– Hoa giấy rất giản dị, hồn nhiên.
– Hoa sen thì tinh khiết và thơm ngát.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Trong cuộc sống, gia đình đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đặc biệt, môi trường gia đình bao giờ cũng có tác động hai mặt tới sự hình thành nhân cách của chúng ta.Gia đình là một trong ba môi trường của xã hội, quyết định trực tiếp tới mặt tự nhiên và xã hội trong mỗi con người. Là nơi để các thành viên sống chân thành với nhau, san sẻ lòng yêu thương, niềm vui, là điểm dựa vững chắc nhất những lúc chúng ta gặp khó khăn, hay thất bại trong cuộc sống. Gia đình là những người cùng chung sống dưới một mái nhà, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống, thường gồm có ông bà, cha mẹ, con cái và cháu chắt.Thời thơ ấu: Gia đình là nơi để chúng ta phát triển về thể chất và tâm hồn. Là nơi bảo vệ những tác động xấu, uốn nắn kịp thời những biểu hiện lệch lạc để cho nhân cách ta phát triển hoàn thiện. Là trường học đầu tiên để hình thành những kỹ năng cơ bản cho một cuộc sống tốt đẹp. Khi trưởng thành: Gia đình là nơi mà ta trở về sau những bôn ba vất vả của cuộc sống. Là nơi ta được san sẻ tình yêu thương cùng với ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình. Là sự bao dung, che chở và tha thứ khi ta gặp phải lầm lạc hay những bất trắc cùa cuộc đời. Là sự động viên khích lệ cho những thành quả, thành công,... Khi về già: Gia đình là nơi để ta nghỉ ngơi sau một quãng đời phấn đấu, lao động mệt nhọc. Là nơi đem lại niềm vui sống vào tuổi xế chiều. Là nơi tìm được ý nghĩa cuộc sống, răn dạy cháu con những kinh nghiệm cuộc sống ngay cả khi đã sức tàn lực kiệt.Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình góp phần quan trọng cho sự phát triển chung về mọi mặt của toàn xã hội, cùng với xã hội xây dựng mội trường sống và hoàn thiện con người. Chúng ta phê phán những biểu hiện lệch lạc tạo mầm móng cho sự rạn nứt, tan vỡ của các quan hệ gia đình. Đó có thể là nạn bạo hành gia đình, con cái bất hiếu với cha mẹ. Cha mẹ thiếu nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc con cái nên người. Một hiện tượng dễ thấy trong xã hội hiện đại là tình trạng ly hôn ngày càng nhiều, mà thiệt thòi nhất vẫn là trẻ em và phụ nữ.Mỗi con người là một kiểu cá tính, tâm lí, có một nhu cầu, ý muốn khác nhau. Để tạo nên mối quan hệ bền vững và tốt đẹp trong gia đình, mỗi người cần biết cân bằng, điều chỉnh bản thân và có trách nhiệm yêu thương, chăm sóc các thành viên khác.Gia đình hạnh phúc thì đòi hỏi mọi thành viên phải bình đẳng, có tâm huyết, có tình cảm và đức hy sinh. Giữ được sự yên ấm và vun đắp hạnh phúc cho gia đình là tạo một nền tảng cho sự phát triển bền vững của con người, của xã hội.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Câu đặc biệt thường được dùng trong trong các văn bản văn chương để:
– Xác định thời gian, nơi chốn diễn ra sự việc được nói đến trong đoạn;
Ví dụ:
+ Mùa xuân! Mỗi khi hoạ mi tung ra những tiếng hát vang lừng, mọi vật như có sự thay đổi kì diệu.
(Võ Quảng)
Câu đặc biệt “Mùa xuân ” dùng để xác định thời gian.
+ Nắng đã lên rồi! Nắng chan hoà xóm núi. Những triền dốc. Những lòng suối và mảng rừng. Chợ vùng cao xôn xao trong nắng mới. Chơ Đồng Văn. Ngựa thồ thon vó và đẹp mã từ các dốc đê, ngả đường ùn ùn kéo tới chợ. Tiếng khèn. Tiếng ngựa hí. Náo nức lòng người.
(Lí Xè Páo)
Câu đặc biệt “Chợ Đồng Văn ” dùng để xác định nơi chốn.
– Liệt kê, thông báo về sự tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:
+ Một ngôi sao. Hai ngôi sao. Sao lấp lánh. Sao như nhớ thương. Gió rừng càng về khuya càng xào xạc. Rồi tiếng chim mơ hồ gần xa.
(Lí Phan Quỳnh)
+ Xuân đến tự bao giờ? Bầu trời không còn trắng đục nữa. Đã có những đêm xanh. Những buổi sáng hồng. Cây cối bừng tỉnh. Ong vàng và bướm trắng. Xôn xao. Rôn ràng. Tiếng chim hót ríu ran vườn chè. Hương hoa ngào ngạt...
– Bộc lộ cảm xúc.
Ví dụ:
+ Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? (Thế Lữ)
+ Không chờ nghe bác về, thoáng cái tôi đã đặt chân tới bờ. Chao ôi! Chợ gì mà lạ lùng thế này? Bộ Tây sắp đánh đến nơi, nên người ta đem vườn bách thú ra phát mãi hay sao!
(Đoàn Giỏi)
– Gọi đáp.
Ví dụ:
+ Huế ơi! Quê mẹ của ta ơi.
(Tố Hữu)
+ Thanh!
Dạ
Mày đi đâu?
Dạ, thưa cô, bà sai con đi mua hạt tiêu.
(Nguyễn Công Hoan)
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Tục ngữ thường là câu rút gọn vì nó giúp làm gọn câu hơn, vừa dễ hiểu, vừa tránh lặp lại các từ ngữ xuất hiện ở trước .
Ví dụ : Học ăn, học nói, học gói, học mở .
=> Ở đây rút gọn thành phần Chủ Ngữ (tôi, chúng ta, chúng tôi,...)
Bởi vì câu tục ngữ là những lời dạy dành cho tất cả mọi người, không cố định là ai nên dùng câu rút gọn tục ngữ (không chỉ có "anh ấy, cô ấy, ..."
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
sáng nào cũng vậy, mẹ tôi dậy sớm ra đồng cấy lúa
chiếc áo của em có một chiếc mũ đi kèm được làm bằng loại vải rất ấm thích hợp vào mùa đông
chiếc váy của em được đính những hạt cườm rất đẹp
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Sáng nào cũng vậy, mẹ tôi luôn đánh thức tôi dậy.
Con chó nhà em đang sủa inh ỏi.
Chiếc áo của em đang bay phấp phới trong gió.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Dế mèn là một cậu dế bảnh trai, cường tráng, khỏe mạnh với nhiều hình ảnh như: với đôi càng mẫm bóng, những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt, đôi cánh... bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi, lại thêm đầu... to ra và nổi từng tảng rất bướng, hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lười liềm máy làm việc..., Dế Mèn thật ra dáng con nhà võ. Oai phong hơn, Dế Mèn còn có sợi râu... dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng. Dương dương tự đắc, chú ta đi đứng oai vệ, luôn tranh thủ mọi cơ hội để thể hiện mình. Thỉnh thoảng, muốn thử sự lợi hại của những chiếc vuốt, chú ta “co cẳng lên đạp phanh phách vào các ngọn cỏ” hay chốc chốc lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu. Tự cho mình là nhất, chú không ngần ngại cà khịa với tất cả mọi bà con trong xóm (quát các chị Cào Cào, đá anh Gọng Vó,...). Tính cách của Dế Mèn lại kiêu căng, xốc nổi, điệu đàng, hung hăng và ngộ nhận. Thái độ của Dế Mèn với Dế Choắt là kẻ cả, trịch thượng (qua cách đặt tên là Dế Choắt, ví von so sánh như gã nghiện thuốc phiện, xưng hô chú mày, tính tình khinh khỉnh, giọng điệu bề trên, dạy dỗ). Không những thế, Dế Mèn còn tỏ ra ích kỉ, không cho Dễ Choắt thông ngách sang nhà, lại còn mắng “Đào tổ nông thì cho chết”.Khi trêu chị Cốc, Dế Mèn thật hung hăng, kiêu ngạo: “Sợ gì ? Mày bảo tao sợ cái gì ? Mày bảo tao còn biết sợ ai
Dế Mèn phiêu lưu kí tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài trong đó đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên để lại nhiều ấn tượng và ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt là nhân vật Dế Mèn và bài học đầu đời.
Dế Mèn từ khi sinh ra đã được mẹ cho sống riêng để tập tính sống độc lập, chú rất thích cuộc sống tự do, thoải mái. Nhờ ăn uống điều độ đúng cách chẳng mấy chốc mà lớn nhanh như thổi trở thành thanh niên cường tráng, khỏe mạnh. Để thỏa mãn tính tò mò, thích khám phá chú sục sạo nhiều nơi và xem xét mọi thứ hay đơn giản là nhìn ngắm trời đất. Bắt đầu từ đây Dế Mèn đã hung hăng, nghịch ngợm, không coi ai ra gì.
Chính Dế Mèn đã chọc ghẹo chị Cốc nhưng lại đổ tội cho Dế Choắt một chú dế ốm yếu phải gánh tội thay, chị Cốc đã mổ đến chết Dế Choắt không cho cơ hội thoát thân. Trước khi chết, Dế Choắt có lời khuyên sau cùng gửi đến Dế Mèn nên từ bỏ thói hung hăng, khoác lác, chọc ghẹo kẻ khác nếu không sớm muộn cũng rước họa vào thân.
Dế Mèn biết sống tự lập, biết phòng xa khi đào hang sâu, biết lo cho bản thân nhưng không nghĩ đến người khác, khoác lác, tự cao tự đại, với bản tính của mình chú đã gây hại cho người kẻ yếu hơn. Nhưng sau cùng cái chết của Dế Choắt đã làm cho Dế Mèn ân hận và tỉnh ngộ. Chính Dế Mèn đã hiểu bản tính của mình đã gây họa cho người vô tội. Sự phục thiện Dế Mèn trong phần cuối của đoạn trích chính là bài học đường đời đầu tiên đầy thấm thía với chú.
Ai cũng sẽ mắc sai lầm, Dế Mèn cũng vậy, nhân vật Dế Mèn trong truyện vừa đáng trách mà cũng đáng thương, khi vượt qua những bài học cuộc sống Dế Mèn sẽ trưởng thành và sống tốt đẹp hơn.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Thanh hải viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ khi đang nằm trên giường bệnh. Dù đang ở những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn tâm niệm gắn kết cuộc đời mình với cuộc đời chung của dan tộc, của đất nước trước và sau khi chết. Tâm nguyện ấy thể hiện rõ ràng ở cách nhà thơ dùng đại tù xung hô trong bài thơ.
Đến gần cuối bài thơ, nhà thơ chuyển sang xưng “ta” đầy tự hào:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Điều ấy thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong sự vận động mạch cảm xúc và tư tưởng của bài thơ. Chữ “tôi” trong câu “Tôi đưa tay tôi hứng” biểu hiện một cái tôi cụ thể, rất riêng của nhà thơ trong sự nâng niu, trân trọng vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân. Ở đây, nếu dùng đại từ “ta” sẽ mất đi vẻ đẹp khiêm nhường – một cái “ta” có vẻ phô trương, làm mất đi giọng tâm tình đằm lắng của bài thơ.
Chữ “ta” trong hàng loạt hành động: “ta làm…”, “ta nhập…”, “ta xin hát…” được gợi sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước. Hơn nữa, đại từ “ta” sẽ tạo được sự lan tỏa và đồng cảm của mọi người – tác giả nói thay cho nhiều cái “tôi” khác. Mà cái “chúng ta” là sự cộng hưởng, chia sẻ, đóng góp phần tinh túy nhất mỗi cái “tôi”. Điều độc đáo là chữ “ta” này vẫn mang một giọng điệu nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái “tôi” Thanh Hải.
# mui #
Bạn tham khảo nhé
- Tôi và ta đều là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất.
- Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình từ "tôi" sang "ta". Điều này không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật thích hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Chữ "tôi" trong câu "tôi đưa tay tôi hứng" ở khổ thơ đầu vừa thể hiện một cái "tôi" cụ thể rất riêng của nhà thơ, vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ "ta" thì hoàn toàn không thích hợp nội dung cảm xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có vẻ phô trương.
-Còn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát vọng được dâng hiến giá trị tinh quý của đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ "ta" lại tạo được sắc thái quan trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước.
- Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ của riêng nhà thơ, mà của biết bao thế hệ người Việt Nam đang sống và cống hiến cho sự nghiệp chung, cái "tôi" của tác giả đã nói thay cho nhiều cái "tôi" khác, nó nhất thiết phải hoá thân thành cái "ta". Nhưng "ta" mà không hề chung chung vô hình, mà vẫn nhận ra được một giọng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái "tôi" Thanh Hải.
CHUNG LAY TU NGUOI QUA NGUOI DO TIEP XUC .O THE GIOI , HAU NHU CAC NUOC DEU DONG CUA BIEN GIOI .O VIET NAM DANG QUAN LY TOT BENH DICH