K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

ĐỀ 1:I. PHẦN ĐỌC – HIỂU (4.0 điểm)Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu dưới đây:“Quê hương là vòng tay ấmCon nằm ngủ giữa mưa đêmQuê hương là đêm trăng tỏHoa cau rụng trắng ngoài thềmQuê hương là vàng hoa bíLà hồng tím giậu mồng tơiLà đỏ đôi bờ giâm bụtMàu hoa sen trắng tinh khôiQuê hương mỗi người chỉ mộtNhư là chỉ một mẹ thôiQuê hương có au không...
Đọc tiếp

ĐỀ 1:

I. PHẦN ĐỌC – HIỂU (4.0 điểm)

Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu dưới đây:

“Quê hương là vòng tay ấm

Con nằm ngủ giữa mưa đêm

Quê hương là đêm trăng tỏ

Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Quê hương là vàng hoa bí

Là hồng tím giậu mồng tơi

Là đỏ đôi bờ giâm bụt

Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương có au không nhớ…”

(Trích Bài học đầu cho con, Đỗ Trung Quân, Có hoa cận gốc, NXB Thuận Hóa - Huế, 1991)

 

Câu 1 (0,5 điểm): Xác định thể thơ của đoạn thơ trên.

Câu 2 (0,5 điểm): Xác định nhân vật trữ tình trong đoạn thơ trên.

Câu 3 (1,0 điểm): Cho biết ý nghĩa của phép lập từ trong hai câu sau:
"Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi"

Câu 4 (1,0 điểm): Cho biết cảm xúc chủ đạo (xuyên suốt) của bài thơ.

Câu 5 (1,0 điểm): Cho biết thông điệp được gửi gắm từ đoạn thơ trên.

1
18 tháng 3

Trả lời câu hỏi:

Câu 1 (0,5 điểm):

  • Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ tự do.

Câu 2 (0,5 điểm):

  • Nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là người con đang bày tỏ tình cảm về quê hương.

Câu 3 (1,0 điểm):

  • Phép lặp từ "chỉ một" trong hai câu thơ:
    "Quê hương mỗi người chỉ một
    Như là chỉ một mẹ thôi"
    → Nhấn mạnh sự độc nhất, thiêng liêng của quê hương, giống như tình mẫu tử. Quê hương không thể thay thế, mỗi người chỉ có một quê hương duy nhất để yêu thương và gắn bó.

Câu 4 (1,0 điểm):

  • Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là tình yêu quê hương sâu nặng, tha thiết.

Câu 5 (1,0 điểm):

  • Thông điệp được gửi gắm: Quê hương là nơi gắn bó thiêng liêng, gần gũi và không thể thay thế trong trái tim mỗi người. Hãy yêu thương, trân trọng và giữ gìn quê hương như chính tình yêu đối với mẹ.
18 tháng 3

Bài văn cảm nghĩ về đoạn trích:


Đoạn trích trên là một đoạn văn cảm động và sâu sắc, nói về tình mẫu tử và sự nhớ nhung, xót thương của người con đối với người mẹ đã qua đời.


Đoạn trích bắt đầu bằng hình ảnh hoa sen, một biểu tượng của vẻ đẹp, sự tinh khiết và thanh cao. Mẹ đã hát về hoa sen, về vẻ đẹp của nó, về sự lặng lẽ và dịu dàng của nó. Hình ảnh này đã gợi lên trong tôi cảm giác về sự ấm áp và yêu thương của người mẹ.


Tuy nhiên, đoạn trích cũng nói về sự mất mát và chia ly. Sen đã tàn, mùa hạ đã qua, và người mẹ đã lìa xa cõi đời. Đây là một sự thật đau đớn và không thể tránh khỏi. Nhưng đoạn trích cũng cho chúng ta thấy rằng, mặc dù người mẹ đã qua đời, nhưng tình yêu và nhớ nhung của người con vẫn còn đó, vẫn sống mãi.


Cuối cùng, đoạn trích nói về sự chuyển hóa và sự sống mãi của người mẹ. Sen tàn rồi sen lại nở, người mẹ thành ngôi sao lên trời. Đây là một hình ảnh đẹp và sâu sắc, nói về sự sống mãi và sự chuyển hóa của con người.


Tổng thể, đoạn trích trên là một đoạn văn cảm động và sâu sắc, nói về tình mẫu tử, sự nhớ nhung và xót thương, và sự sống mãi của con người. Nó đã gợi lên trong tôi cảm giác về sự ấm áp và yêu thương của người mẹ, và sự chuyển hóa và sự sống mãi của con người.

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích những đặc sắc nghệ thuật và chủ đề của bài thơ “Sông núi nước Nam”.           Sông núi nước Nam           (Nam quốc sơn hà)     Phiên âm     Nam quốc sơn hà Nam đế cư     Tiệt nhiên định phận tại thiên thư     Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm     Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.         Dịch thơ     Sông núi...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích những đặc sắc nghệ thuật và chủ đề của bài thơ “Sông núi nước Nam”.

          Sông núi nước Nam

          (Nam quốc sơn hà)

    Phiên âm

    Nam quốc sơn hà Nam đế cư

    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

   

    Dịch thơ

    Sông núi nước Nam vua Nam ở

    Vằng vặc sách trời chia xứ sở

    Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

    Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

(Theo Lê Thước – Nam Trân dịch, trong Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)

* Chú thích:

– Chưa rõ tác giả của bài thơ là ai. Sau này có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở Viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt.

Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác.

Phận: rút gọn của từ “giới phận”, “địa phận” là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định).

Như hà: cớ sao.

Lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt.

Lai: đến.

Nhữ đẳng: bọn chúng mày.

Khan: xem.

Thủ: nhận lấy.

7
18 tháng 3

mandka


18 tháng 3

fhfg

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Bát phở” của tác giả Phong Điệp. BÁT PHỞ      (Lược trích một phần: Nhân vật “tôi” đi ăn phở tại một quán phở khá ngon, có tiếng ở Hà Nội. Tôi tình cờ được chứng kiến câu chuyện của hai người cha đang đưa hai cậu con trai từ quê lên Hà Nội thi đại học....
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Bát phở” của tác giả Phong Điệp.

BÁT PHỞ

     (Lược trích một phần: Nhân vật “tôi” đi ăn phở tại một quán phở khá ngon, có tiếng ở Hà Nội. Tôi tình cờ được chứng kiến câu chuyện của hai người cha đang đưa hai cậu con trai từ quê lên Hà Nội thi đại học. Hai người cha sau khi đã trao đổi với nhau mất vài phút, họ cùng bước vào quán phở chỗ tôi đang ngồi.)

     Cả bốn người họ nhìn sang tôi, nhìn sang những bàn khác, rồi tần ngần nhìn tới nhìn lui cái biển ghi trên cửa quán.

     – Phở bò nhé? Tái hay chín?

     – Thêm cả quả trứng cho chắc bụng nhé?

     Hai cậu con nhè nhẹ gật đầu:

     – Vâng, gì cũng được.

     – Thế thì cho hai phở bò chín. Hai trứng.

     Thằng nhỏ chạy bàn vo cái khăn trong tay, tần ngần nhìn bốn người, ý chừng như muốn hỏi: “Sao bốn người mà chỉ có hai bát?”. Nó chạy ra chỗ ông chủ quán, chỏng lỏn: “Hai bò!”.

     Trong tích tắc, hai bát phở sóng sánh được bê ra, đặt trịnh trọng trên bàn.

     – Chúng mày ăn đi. – Một trong hai người cha lên tiếng.

     Đoạn hai ông kéo xích cái ghế ra ngoài một chút, thì thầm nói chuyện với nhau. Đại loại ba cái chuyện mùa màng, bò đẻ, vải thiều sụt giá,... Rồi tới nữa là chuyện phòng trọ trên này sao đắt chi mà đắt. Sáng mốt ngủ dậy, mình phải trả phòng luôn, không là họ tính thêm một ngày nữa. Mình đợi chúng nó ngoài phòng thi, thi xong thì ra bến xe về luôn. Cần thì mua mấy tấm bánh mì, lên xe ăn tạm. Về đến quê rồi, chúng nó thích ăn gì, tha hồ ăn. Chứ trên này, chậc...chậc...

     Cuộc sống nơi đây hẳn là khác rất xa với nơi họ vẫn sống hàng ngày, nơi mà họ đang thon thót về đợt vải năm nay, con bò sắp đẻ lại lăn đùng ra ốm. Họ chỉ vừa lên đây vài ba bữa mà đã thấy lâu quá trời quá đất. Bộ quần áo chỉn chu nhất trong tủ quần áo của hai ông bố nông dân ấy, đều đã mang cả ra đây để mặc rồi. Những bộ quần áo không còn rõ màu sắc ban đầu của vải nữa. Nhưng dưới quê, chỉ có lễ trọng họ mới mặc mà thôi.

     Trong khi ấy, hai cậu con vẫn cặm cụi ngồi với bát phở của mình. Chúng không nói gì. Không cả dám khen một câu đại loại: "Phở ở đây ngon quá!", “Hàng phở này ngon thật!”. Tôi vốn rành ăn phở, những quán thế này không thật nhiều. Nhưng vì sao chúng không hồ hởi mà thổi ra một câu như thế?

     Và tôi, không kìm nén được mình, cứ hướng sang phía bốn con người ấy. Bốn con người ngồi lặng một góc giữa cái quán ồn ã. Người cha sẽ đợi những đứa con của mình ăn đến tận thìa nước cuối cùng, rồi lẳng lặng moi cái ví bằng vải bông chần màu lam, cất trong ngực áo ra. Ông sẽ phải đếm một lúc cho những tờ hai nghìn, năm nghìn, mười nghìn để sao cho đủ ba mươi nghìn đồng, trả cho hai bát phở...

     Hai cậu con trai lặng lẽ bên những người cha. Chúng nhìn những đồng tiền đi ra khỏi ví của cha. Trên gương mặt chúng hiển hiện rõ ràng nỗi âu lo, mỏi mệt. Những kì thi, những nẻo đường ngổn ngang phía trước... Hôm nay, chúng nợ cha ba mươi nghìn đồng. Cuộc đời này, chúng nợ những người cha hơn thế nhiều...

(Theo Phong Điệp, Văn học và Tuổi trẻ, số tháng 5 (430 – 431) năm 2019, NXB Giáo dục Việt Nam, trang 61 – 63)

* Chú thích: Nhà văn Phong Điệp tên thật là Phạm Thị Phong Điệp, sinh năm 1976 tại Nam Định. Truyện của Phong Điệp thường ít cảm xúc lai láng nghệ sĩ, mà tràn trề những câu văn miêu tả của người quan sát khách quan, nhẹ nhõm, dửng dưng nhưng lôi cuốn người đọc đến tận câu kết cuối cùng.

2
18 tháng 3

Truyện ngắn “Bát phở” của Phong Điệp là một tác phẩm giàu tính nhân văn và phản ánh sâu sắc tình yêu thương, sự hy sinh của những người cha dành cho con cái. Qua đó, tác phẩm không chỉ thể hiện chân thực bức tranh cuộc sống mà còn mang đến nhiều suy ngẫm về tình cảm gia đình và giá trị của sự hy sinh.


**Chủ đề chính của truyện** xoay quanh tình cảm gia đình, cụ thể là tình phụ tử. Trong khung cảnh đời thường tại một quán phở ở Hà Nội, câu chuyện khắc họa hình ảnh hai người cha từ quê lên thành phố cùng con trai dự thi đại học. Họ là những người nông dân giản dị, mộc mạc, đang đối mặt với gánh nặng cơm áo gạo tiền. Sự hy sinh của họ được thể hiện qua những hành động nhỏ như nhường con ăn phở trong khi bản thân chỉ ngồi một góc trò chuyện về cuộc sống khó khăn. Truyện ngắn nhấn mạnh rằng tình yêu thương và sự hy sinh của cha mẹ dành cho con cái là vô bờ bến, thầm lặng nhưng vô cùng sâu sắc.


**Nét đặc sắc nghệ thuật** của truyện được thể hiện qua nhiều yếu tố:


1. **Cách kể chuyện gần gũi, chân thực:** Tác giả chọn ngôi kể thứ nhất, từ góc nhìn của nhân vật “tôi”, để tái hiện một cách chân thực khung cảnh đời thường. Lời kể nhẹ nhàng, quan sát khách quan nhưng lại tạo nên sự lôi cuốn bởi sự tinh tế trong từng chi tiết miêu tả.


2. **Hình ảnh đời thường mang ý nghĩa sâu sắc:** Câu chuyện xoay quanh bát phở – một món ăn bình dị, quen thuộc với mọi người Việt Nam. Tuy nhiên, bát phở ở đây trở thành biểu tượng của sự hy sinh, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái. Chi tiết hai người cha chỉ gọi hai bát phở cho con, trong khi họ ngồi bên và không ăn, đã tạo nên sự xúc động mạnh mẽ, khắc họa rõ nét tình yêu thầm lặng của những người làm cha.


3. **Miêu tả tâm lý tinh tế:** Tâm lý của nhân vật được tái hiện qua từng cử chỉ, ánh mắt và lời nói. Hai người cha lo lắng về tiền bạc, tính toán từng đồng để đủ chi phí cho chuyến đi. Trong khi đó, hai cậu con trai tuy im lặng nhưng dường như cảm nhận được nỗi vất vả của cha mình, khiến câu chuyện thêm phần cảm động.


4. **Ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc:** Phong Điệp sử dụng ngôn từ dung dị, gần gũi, nhưng lại có khả năng chạm đến trái tim người đọc. Chính sự đơn giản đó đã làm nổi bật lên chiều sâu của câu chuyện và giá trị nhân văn.


Tóm lại, “Bát phở” là một tác phẩm ngắn gọn nhưng đầy sức mạnh, phản ánh tình cảm gia đình trong cuộc sống hiện đại. Qua những chi tiết đời thường và cách miêu tả tinh tế, Phong Điệp đã làm nổi bật lên tình cha con sâu sắc, từ đó gợi lên trong lòng độc giả sự trân trọng và yêu quý hơn những giá trị giản dị của cuộc sống. Truyện không chỉ là một lát cắt nhỏ trong đời sống, mà còn là tấm gương soi chiếu về tình yêu thương và trách nhiệm gia đình.

18 tháng 3

Cô tick cho em nhé

18 tháng 3

1. Giới thiệu tác phẩm

Chiếc lá cuối cùng là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của O. Henry, được sáng tác vào đầu thế kỷ XX. Truyện mang đậm giá trị nhân văn, ca ngợi tình người và sức mạnh của niềm tin, đồng thời thể hiện phong cách nghệ thuật đặc trưng của tác giả với những tình huống bất ngờ, cảm động.

2. Tóm tắt truyện

Câu chuyện diễn ra tại một khu phố nghèo ở New York, nơi có hai nữ họa sĩ trẻ là JohnsySue sống cùng nhau. Mùa đông đến, Johnsy mắc bệnh viêm phổi nặng và mất dần hy vọng sống. Cô tin rằng khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống, cô cũng sẽ lìa đời.

Người họa sĩ già Behrman, hàng xóm của họ, đã lặng lẽ vẽ một chiếc lá thường xuân trên tường trong đêm mưa gió để giữ vững niềm tin cho Johnsy. Nhờ chiếc lá kiên cường không rơi, Johnsy lấy lại ý chí sống và hồi phục. Nhưng bi kịch xảy ra: Behrman lại qua đời vì viêm phổi sau khi vẽ chiếc lá trong mưa rét.

3. Phân tích nội dung

a) Chủ đề và giá trị nhân văn
  • Tình người cao đẹp: Truyện thể hiện tình yêu thương và sự hy sinh cao cả giữa những con người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Behrman sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để cứu một cô gái trẻ.
  • Niềm tin và nghị lực sống: Johnsy gần như từ bỏ sự sống, nhưng chỉ một "chiếc lá" nhỏ bé cũng có thể vực dậy tinh thần cô. Điều đó cho thấy sức mạnh của ý chí và hy vọng.
  • Nghệ thuật và sự bất tử: Behrman luôn mơ ước vẽ một kiệt tác. Cuối cùng, "chiếc lá cuối cùng" chính là kiệt tác của ông – một tác phẩm không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn cứu rỗi một con người.
b) Hình tượng nhân vật

Johnsy: Một cô gái trẻ, giàu đam mê nhưng yếu đuối trước bệnh tật. Sự thay đổi của Johnsy từ chỗ tuyệt vọng đến hồi sinh thể hiện ý nghĩa của niềm tin vào cuộc sống.

Sue: Một người bạn tận tụy, luôn chăm sóc Johnsy và tìm mọi cách để động viên cô. Sue là hiện thân của tình bạn chân thành.

Behrman: Một họa sĩ già, nghèo khó nhưng có một trái tim vĩ đại. Ông sống lặng lẽ, hy sinh vì người khác mà không màng danh lợi. Behrman tượng trưng cho lòng nhân ái và sự hy sinh vô điều kiện.

4. Nghệ thuật đặc sắc

  • Tình huống truyện bất ngờ: Chiếc lá cuối cùng tưởng như là thật nhưng hóa ra lại là một tác phẩm hội họa. Điều này tạo nên sự xúc động mạnh mẽ.
  • Lối kể chuyện giản dị nhưng sâu sắc: O. Henry sử dụng giọng kể tự nhiên, gần gũi nhưng đầy tính triết lý.
  • Hình ảnh biểu tượng: "Chiếc lá cuối cùng" không chỉ là một vật thể mà còn tượng trưng cho niềm tin, hy vọng và tình yêu thương trong cuộc sống.

5. Bài học rút ra

  • Niềm tin có thể thay đổi số phận: Dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất, con người vẫn có thể tìm thấy hy vọng nếu không từ bỏ.
  • Lòng tốt và sự hy sinh luôn tồn tại: Cuộc sống có thể khắc nghiệt, nhưng vẫn có những con người như Behrman, sẵn sàng hy sinh vì người khác.
  • Giá trị của nghệ thuật: Nghệ thuật không chỉ để thưởng thức mà còn có thể mang lại sự sống và thay đổi con người.

6. Kết luận

Chiếc lá cuối cùng là một truyện ngắn cảm động, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. Với nghệ thuật kể chuyện tinh tế và tình huống bất ngờ, O. Henry đã để lại một tác phẩm bất hủ về tình yêu thương và niềm tin vào cuộc sống.