K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Sự kết hợp độc đáo vì nghệ thuật và cảm xúc Thể thơ song thất lục bát là một sáng tạo đặc sắc trong văn học Việt Nam, kết hợp giữa nhịp điệu khỏe khoắn của thơ thất ngôn và sự mềm mại, du dương của thể thơ lục bát. Sở dĩ người đời lựa chọn sự hòa trộn này là vì:

  • 🔔 Cân bằng giữa âm vang và dịu dàng
    • Thất ngôn (7 chữ) mang tính trang trọng, mạnh mẽ, thường dùng để thể hiện cảm xúc dữ dội.
    • Lục bát (6-8 chữ) lại trầm lắng, da diết, dễ khơi gợi nỗi niềm và tâm sự.
  • 🎭 Thích hợp diễn đạt nội tâm phức tạp
    • Song thất lục bát rất phù hợp để diễn đạt những tâm trạng vừa bi ai, u uẩn nhưng cũng đầy chất trữ tình.
    • Đặc biệt trong thơ nôm đường luật, thể này được dùng nhiều để diễn đạt tình cảm của con người trong xã hội phong kiến.
  • 🎶 Âm điệu trôi chảy, dễ đi vào lòng người
    • Sự xen kẽ giữa thất ngôn và lục bát tạo nên nhịp điệu luân phiên, không đơn điệu như các thể thuần nhất.
    • Khi đọc lên có tiết tấu rõ ràng, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ ngân nga như một khúc hát.
  • ✍️ Tạo điều kiện cho sự sáng tạo
    • Cho phép người viết mở rộng hình thức biểu đạt, thay đổi nhịp thơ linh hoạt hơn.
    • Từ đó làm phong phú thêm vốn văn học dân tộc.

🌿 Có thể nói, song thất lục bát là chiếc cầu nối giữa cái hào sảng và cái sâu lắng, vừa giữ được vẻ đẹp truyền thống vừa mở lối cho cảm xúc bay xa.

7 tháng 8

Most people are known to prefer buying goods from someone they trust.

7 tháng 8

Most people are more likely to buy goods from someone they trust.

  • They were about to leave the house when the phone rang
    They were on the point of leaving the house when the phone rang.
  • She can meet him if he arrives before eleven.
    So long as he arrives before eleven, she can meet him.
7 tháng 8

1.They were on the point of leaving the house when the phone rang.

2. So long as he arrives before eleven, she can meet him

7 tháng 8
  1. She has a good relationship with her colleagues.
    → She is on good terms with her colleagues.

  1. Doing the same things every day gives me no pleasure.
    → I don't enjoy doing the same things every day.

  1. No one can learn all that in one day.
    → No one is capable of learning all that in one day.

  1. You have to put more effort in if you want to succeed.
    → You will fail unless you put more effort in.
7 tháng 8

1. She has a good relationship with her colleagues. → She is on good terms with her colleagues.


2. Doing the same things every day gives me no pleasure. → I do not enjoy doing the same things every day.


3. No one can learn all that in one day. → No one is capable of learning all that in one day.


4. You have to put more effort in if you want to succeed. → You will fail unless you put more effort in.

6 tháng 8

Đây nhé bạn:

Bài thơ “Nói với em” của nhà thơ Vũ Quần Phương là một tác phẩm nhẹ nhàng mà sâu sắc, chất chứa tình yêu thương, niềm tin và khát vọng của người anh dành cho đứa em nhỏ nơi miền núi. Bài thơ khiến em rất xúc động vì không chỉ là lời trò chuyện giữa hai anh em mà còn là lời nhắn nhủ của thế hệ đi trước gửi đến thế hệ mai sau.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vùng cao với hình ảnh thơ mộng nhưng cũng đầy gian khổ: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Những cánh rừng trở thành nơi chiến đấu, nơi che chở cho những người lính cách mạng. Giữa khung cảnh đó, người anh vừa làm nhiệm vụ với đất nước, vừa nhớ thương, quan tâm đến em – một đứa trẻ thơ ngây chưa hiểu hết những điều lớn lao. Anh dặn em lắng nghe tiếng suối, tiếng chim, nhìn những con đường đất uốn quanh núi – đó là cách để em cảm nhận quê hương, đất nước đang đổi thay từng ngày. Em cảm nhận được tình yêu thương sâu sắc của người anh, dù đang ở nơi chiến trận vẫn không quên dặn em học hành, sống tốt và yêu thiên nhiên quê nhà.

Câu thơ khiến em xúc động nhất là: “Rồi mai lớn, bước đường quê hương em bước tiếp”. Câu thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu xa. Người anh gửi gắm vào em cả một niềm tin: mai này khi lớn lên, em sẽ tiếp nối con đường của anh, sẽ góp phần dựng xây và bảo vệ Tổ quốc. Bài thơ không chỉ là lời nhắn gửi đến một đứa em cụ thể, mà còn là lời nhắc nhở mỗi chúng em – những học sinh hôm nay – phải biết sống có trách nhiệm, yêu quê hương từ những điều bình dị, gần gũi nhất.

Qua bài thơ “Nói với em”, em hiểu rằng lòng yêu nước không phải là điều gì to tát, xa vời, mà bắt đầu từ tình yêu gia đình, yêu những âm thanh, hình ảnh thân quen của làng quê, yêu người thân, yêu cuộc sống. Bài thơ đã giúp em thêm yêu thiên nhiên, biết ơn những người đã hi sinh cho đất nước và tự nhắc mình phải cố gắng học tập, rèn luyện để sau này góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Câu 1 (2,0 điểm). Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích hai nhân vật người tử tù trong đoạn trích ở phần đọc hiểu.Câu 2 (4,0 điểm). Trong văn bản Quả bàng hình trái tim, ở xà lim, hai người tử tù ấp ủ ước mơ về một ngày đất nước thống nhất, người mang giống bàng Phú Quốc về trồng ở Hà Nội, người chế biến quả bàng thành món quà ý nghĩa cho quê hương. Đến nay, tại...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm). Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích hai nhân vật người tử tù trong đoạn trích ở phần đọc hiểu.

Câu 2 (4,0 điểm). Trong văn bản Quả bàng hình trái tim, ở xà lim, hai người tử tù ấp ủ ước mơ về một ngày đất nước thống nhất, người mang giống bàng Phú Quốc về trồng ở Hà Nội, người chế biến quả bàng thành món quà ý nghĩa cho quê hương. Đến nay, tại di tích Nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, cây bàng với những sản phẩm đặc trưng như: trà bàng lá nếp, bánh lá bàng, thạch bàng, khung ảnh lá bàng,... đã trở thành món quà ý nghĩa đối với du khách. Đó là minh chứng cho ước mơ của những người tử tù ấy đã trở thành hiện thực.

Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) bàn về những giải pháp thể hiện lòng biết ơn của thế hệ trẻ với những giá trị tốt đẹp mà cha ông ta đã hy sinh cả cuộc đời để mang đến cuộc sống hòa bình hôm nay.

3

Bạn tham khảo:

           Hai nhân vật tử tù trong đoạn trích hiện lên đầy tính nhân văn và ý chí kiên cường trước cảnh ngục tù nghiệt ngã. Dù bị giam cầm trong hoàn cảnh tăm tối, đau đớn và khát nước, họ vẫn giữ được tâm hồn trong sáng, gợi nhớ về những ký ức tuổi thơ tươi đẹp bên cây bàng xanh mát đã biểu tượng của niềm hy vọng và tự do. Người tử tù trẻ tuổi thể hiện sự yếu đuối và đau đớn thể xác rõ ràng nhưng vẫn cố gắng kiềm chế, thể hiện ý chí chiến đấu không đầu hàng trước số phận. Trong khi đó, người tử tù lớn tuổi lại mang dáng dấp của sự an ủi, chia sẻ, luôn giữ sự lạc quan và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước. Tình bạn và sự sẻ chia giữa họ tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, giúp họ vượt qua thử thách khắc nghiệt của nhà tù. Hình ảnh cây bàng, quả bàng chín vàng rơi vào xà lim như sự tiếp thêm sức sống, làm dịu đi nỗi khát, khắc họa rõ nét sức mạnh của thiên nhiên và niềm tin không bao giờ tắt trong lòng con người, dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Hai nhân vật tượng trưng cho ý chí và tình người bất diệt, là biểu tượng cho khát vọng sống và tự do của con người.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?


MT
9 tháng 7

Dung chatgpt

(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:QUẢ BÀNG HÌNH TRÁI TIM (Tóm lược phần đầu: Cây bàng vươn cành tới gần song sắt xà lim, khiến hai người tử tù trong ngục nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ. Họ trò chuyện về trường lớp ngày xưa, nơi có cây bàng xanh mát che nắng trên sân trường. Dù đang trong hoàn cảnh tuyệt vọng, hình ảnh cây bàng và những ký ức ấy làm họ tươi cười, vơi bớt nỗi...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:

QUẢ BÀNG HÌNH TRÁI TIM

(Tóm lược phần đầu: Cây bàng vươn cành tới gần song sắt xà lim, khiến hai người tử tù trong ngục nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ. Họ trò chuyện về trường lớp ngày xưa, nơi có cây bàng xanh mát che nắng trên sân trường. Dù đang trong hoàn cảnh tuyệt vọng, hình ảnh cây bàng và những ký ức ấy làm họ tươi cười, vơi bớt nỗi đau)

Bỗng nhiên, người tử tù, từng là học sinh Hà Nội, rên khe khẽ:

– Ôi! Khát nước quá! Có lẽ, anh sắp ngất đây!

Đôi mắt người tử tù nhắm nghiền, nén cơn khát và đau đớn vết thương do kẻ thù tra tấn. Người tử tù trẻ tuổi ngả đầu vào bạn tù. Đôi mắt nhìn qua song sắt, thầm ước:

– Nếu không bị kẻ thù cùm chân thì ta vươn tay ra ngoài song sắt, hái một quả bàng chín vàng kia, vắt nước cho anh...

Cây bàng đã lớn lên bên song sắt nhà tù mấy chục năm. Tiếng hô của các tử tù trước khi ra pháp trường, ánh mắt chứa chan hy vọng của mỗi người tử tù thấm đẫm vào thân cây, vào từng nụ hoa bàng.

Lộp độp! Lộp độp! Bỗng nhiên, mấy quả bàng chín mọng rơi vào trong xà lim. Người tử tù trẻ tuổi kinh ngạc, tay run run nhặt quả bàng. Hai tay lẩy bẩy vắt nước từ cùi quả bàng vào miệng bạn tù. Đôi môi khô rạn, nứt nẻ dần dần mềm mại. Nước quả bàng thấm dần vào lưỡi... Đôi mắt mệt mỏi từ từ hé mở. Người tù trẻ tuổi lấy cùm ghè vỡ quả bàng, lấy nhân bên trong. Nhân quả bàng bùi ngậy giống nhân hạt lạc. Từ hôm ấy, quả bàng là nước uống, là cơm ăn của hai người tử tù. Sức khỏe của hai người tử tù hồi phục. Hai người vẫn dựa lưng vào nhau, kể cho nhau nghe những kỷ niệm về cây bàng giữa sân trường yêu dấu của mình.

Người tử tù lớn tuổi rất ngạc nhiên thấy quả bàng rơi vào xà lim mang hình trái tim của người. Lạ nhỉ?

– Gió biển Phú Quốc mạnh mẽ. Gió nắn trái bàng thành hình trái tim để hướng xuống mặt đất?

– Cây bàng trên đảo thấu hiểu khát vọng của biết bao người tử từ. Từ đó, quả bàng mang hình trái tim, hệt trái tim con người?

Một buổi chiều, tên cai ngục đi qua các xà lim tử tù. Mắt hắn vằn hệt mắt thú dữ nhìn vào trong xà lim. Đôi mắt vằn đỏ vì ngạc nhiên:

– Bảy ngày qua, ta không cho những tên tử tù ăn cơm hẩm, uống nước cống, nhằm để chúng chết khô đét trong ngục. Nhưng vì sao, chúng nó vẫn tươi tắn như cây được tưới nước mưa nhỉ?

Rào... rào... rào... Từ trên cành cao, những quả bàng hướng mũi nhọn đầu trái tim, phóng tới tấp xuống tên cai ngục. Bị tấn công bất ngờ, tên cai ngục hoảng hốt bỏ chạy.

Đàn chim sáo đậu trên cành bàng hót nhặng lên:

– Đáng đời kẻ ác! Quả bàng bé nhỏ đã làm cho kẻ ác khiếp sợ!

Bên ngoài biển, sóng ào ào vỗ vào chân đảo. Bên trong xà lim, hai người tử tù bàn chuyện xa xôi:

– Bao giờ đất nước thống nhất, trở về Hà Nội, anh mang giống bàng Phú Quốc, trồng một hàng trong công viên!

– Em lấy nhân quả bàng, chế biến thành món mứt tết tặng cho tất cả du khách đến thăm vịnh Hạ Long, quê em. Nước quả bàng thì đóng hộp, tặng các cháu mẫu giáo được cô giáo phát phiếu “Bé ngoan” ngày cuối tuần.

Vào một ngày biển động. Bọn người mắt vằn như mắt thú dữ hì hục chặt hạ cây bàng bên ngoài song sắt. Chúng xông vào xà lim. Hai người tử tù đều nắm trong tay một quả bàng hình trái tim. Người tử tù bị bịt mắt, lôi đi là người muốn tất cả nhân quả bàng trên đời hóa thành mứt tết ngọt ngào tặng cho nhân loại.

Thời gian trôi theo mặt trời trên biển Việt Nam. Tên cai ngục mắt vằn hung dữ, trở lại di tích nhà tù Phú Quốc. Đôi mắt già nua bối rối nhìn qua song sắt xà lim. Trong xà lim, hiện lên mô hình sống động hai người tử tù dựa lưng vào nhau. Cây bàng ngoài song sắt bị chặt hạ, từ phần gốc nảy lên một mầm bàng non tươi xanh. Mầm bàng non ấy, bây giờ đã hóa thân thành cây bàng già, lưng gù theo năm tháng. Bên gốc bàng, ló dạng căn nhà nhỏ xinh xắn. Bước ra cửa là một người tử tù năm xưa.

– Nào, hãy thưởng thức món mứt nhân quả bàng. Đây là món quà mà bạn tôi muốn làm quà cho mọi người trên Trái đất này!

Đôi mắt vằn năm xưa của người cai ngục, nay chuyển sang màu xám ngoét. Những giọt nước mắt chảy ngoằn ngoèo theo hai bên sống mũi gồ ghề.

(Lê Toán, Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi, NXB Văn học, 2008)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể và chỉ ra dấu hiệu hình thức của ngôi kể đó trong văn bản trên.

Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra lời người kể chuyện và lời nhân vật trong các câu văn sau:

Đàn chim sáo đậu trên cành bàng hót nhặng lên:

– Đáng đời kẻ ác! Quả bàng bé nhỏ đã làm cho kẻ ác khiếp sợ!

Câu 3 (1,0 điểm). Nêu tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa trong câu văn sau:

Từ trên cành cao, những quả bàng hướng mũi nhọn đầu trái tim, phóng tới tấp xuống tên cai ngục.

Câu 4 (1,0 điểm). Nhan đề văn bản Quả bàng hình trái tim có ý nghĩa gì?

Câu 5 (1,0 điểm). Những quả bàng mang hình trái tim rơi vào xà lim đã giúp người chiến sĩ vượt qua hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã. Vậy chúng ta cần làm gì đề vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống?

1

Câu1:

  • Ngôi kể: Ngôi thứ ba.
  • Dấu hiệu: Người kể xưng "hắn", "họ", "hai người tử tù" và biết mọi suy nghĩ, hành động của nhân vật mà không xưng "tôi".Câu 2 (0,5 điểm)

Câu 2:

  • Lời người kể chuyện: "Đàn chim sáo đậu trên cành bàng hót nhặng lên:"
  • Lời nhân vật: "– Đáng đời kẻ ác! Quả bàng bé nhỏ đã làm cho kẻ ác khiếp sợ!"

Câu 3:

  • Tác dụng của biện pháp nhân hóa: Khiến quả bàng trở nên sống động, có ý chí, sức mạnh. Nhấn mạnh sự phản kháng mạnh mẽ của thiên nhiên và những điều tốt đẹp (biểu tượng của sự sống, hy vọng) trước cái ác, cái xấu. Tạo bất ngờ và gây ấn tượng về sức mạnh của chính nghĩa.

Câu 4:

Nhan đề "Quả bàng hình trái tim" mang ý nghĩa:

  • Nghĩa tả thực: Quả bàng có hình dáng giống trái tim (chi tiết kỳ ảo).
  • Nghĩa biểu tượng:
    • Tình yêu thương, sự sẻ chia: Biểu tượng cho tình cảm giữa những người tù, sự đồng cảm của thiên nhiên.
    • Sự sống và niềm hy vọng: Quả bàng là nguồn sống, giúp người tù vượt qua cái chết, giữ vững niềm tin vào tương lai thống nhất đất nước.
    • Lòng căm thù cái ác: Quả bàng còn thể hiện tinh thần chống đối kẻ thù.

    Câu 5:

    Để vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống, chúng ta cần:

    • Giữ vững niềm tin và ý chí kiên cường.
    • Trân trọng những điều nhỏ bé, tích cực.
    • Phát huy tình yêu thương và sự sẻ chia.
    • Luôn lạc quan và nuôi dưỡng ước mơ, khát vọng.
    • Xem khó khăn là cơ hội để học hỏi và trưởng thành.
27 tháng 7
  • Nhân hóa: “xếp hàng đôi”, “đi rước hương” là hành động của con người.
  • Tác dụng: Làm cho hình ảnh đàn kiến trở nên sinh động, có tổ chức như một đám rước lễ. Gợi cảm giác thiên nhiên đang hoan ca, hòa chung vào không khí lễ hội mùa xuân.
27 tháng 7

Trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa qua các hình ảnh:
“Kiến xếp hàng đôi đi rước hương”
“Hai con kênh một sợi tơ mật”

Tác dụng của nhân hóa:

  1. Làm cho thiên nhiên trở nên sống động, gần gũi như con người.
    Hình ảnh đàn kiến “xếp hàng đôi đi rước hương” khiến ta liên tưởng đến một đoàn người nghiêm trang, thành kính đi trong một lễ hội mùa xuân. Từ đó, thiên nhiên hiện lên thật có tổ chức, có sức sống và giàu cảm xúc.
  2. Thể hiện vẻ đẹp thanh bình, rộn rã của khu vườn mùa xuân.
    Nhân hóa đàn kiến, đôi kênh, sợi tơ mật và ong bay tạo nên một không khí nhộn nhịp, tràn đầy âm thanh và hương sắc, cho thấy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên khi xuân về.
  3. Bộc lộ tình cảm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả.
    Việc dùng nhân hóa cho thấy người viết không chỉ quan sát bằng mắt mà còn cảm nhận bằng trái tim. Qua đó, ta thấy sự gắn bó, yêu quý của con người với thiên nhiên thân thuộc, gần gũi nơi thôn quê.

rong câu thơ: "Kiến xếp hàng đôi đi rước hương", biện pháp nhân hóa được sử dụng.

Tác dụng:

  • Gợi hình ảnh sống động: Kiến được nhân hóa như con người ("xếp hàng đôi đi rước hương"), khiến hình ảnh sinh động, có ý thức.
  • Nhấn mạnh sức hấp dẫn của hoa bưởi: Hương hoa thơm đến mức thu hút kiến đến "rước".
  • Tạo không khí vui tươi, nhộn nhịp: Góp phần vẽ nên bức tranh mùa xuân tràn đầy sức sống.
  • Gắn kết thiên nhiên và con người: Làm cho cảnh vật có hồn, có tình.
25 tháng 7

chọn b nha vì peter là ngôi thứ 3 số ít vs chủ ngữ này là câu khẳng định

  • "Peter" là ngôi thứ ba số ít → dùng với "does" trong thì hiện tại đơn.
  • "Does Peter play football every Sunday?" → là câu nghi vấn, nhưng ở đây là câu khẳng định nên cần dùng "does" để nhấn mạnh hoặc trong cấu trúc phủ định, nghi vấn. Tuy nhiên, nếu là câu khẳng định thì động từ "play" đi sau chủ ngữ ngôi thứ ba không cần thêm s khi đã có "does".