Hello! ^^
Halloween zui zẻ nhé mọi người! ^^
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945. Các tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh chủ đề số phận của người nông dân trước Cách mạng. Trong số đó phải kể đến tác phẩm "Tắt đèn" với những kiếp người khốn cùng, tăm tối mà tiêu biểu là nhân vật chị Dậu. Tuy nhiên ở người phụ nữ này luôn tiềm tàng một sức sống, sức phản kháng mãnh liệt đối với xã hội đầy bất công ấy. Đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" chính là ví dụ điển hình nhất cho vẻ đẹp của chị Dậu và của người phụ nữ Việt Nam.
Vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu trước hết là vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng, thương con. Mở đầu đoạn trích là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa được thả sau những đánh trận đánh nhừ tử vì không đủ tiền nộp sưu thuế. Đón chồng về trong tình trạng đau yếu tưởng như sắp chết mà trong nhà cũng chẳng có gì ngon để tẩm bổ, may thay người hàng xóm thương tình cho vay bát gạo nấu cháo cho chồng ăn lại sức. Cháo chín, chị ngồi quạt đợi cho cháo nguội rồi ân cần nâng chồng dậy, dịu dàng như nịnh nọt nói với chồng: "Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xốt ruột". Chị hãy còn để ý xem chồng ăn có ngon miệng hay không. Chính những hình ảnh, cử chỉ đó đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của một người vợ đối với người chồng dù đang trong cơn khốn khó.
Không những thế, khi anh Dậu vừa mới kề bát cháo lên miệng thì bọn cường hào lại tìm đến nhà lôi ra đánh đập. Thương người chồng ốm yếu, chị không quản ngại mà quý xuống van xin cai lệ: "Cháu xin ông", "Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!". Tuy thế nhưng tiếng kêu van của chị không làm cho đám cường hao có một chút động lòng, chúng cứ thế xông vào trói anh Dậu. Bị dồn vào thế chân tường, không còn con đường nào khác, chị đã tức thì đánh trả lại bọn chúng để bảo vệ người chồng đau yếu không còn chút sức kháng cự. Hành động ấy cũng đã chứng tỏ tình yêu thương của chị đối với chồng bất chấp cả cường quyền bạo ngược.
Yêu chồng, thương con, chị Dậu đau như đứt từng khúc ruột khi phải bán đứa con đầu lòng ngoan ngoãn hiếu thảo. Người đọc có thể thấy rằng chị Dậu là người mẹ tàn nhẫn, vì "hỗ dữ không ăn thịt con" vậy mà ở đây chị Dậu lại nhẫn tâm bán con cho nhà Nghị Quế. Nhưng không phải vậy. Người mẹ như chị phải bán đứa con mình đứt ruột đẻ ra mới biết nó đau đớn thế nào. Chị nghĩ rằng, sau khi chồng chị được tha về, hai vợ chồng sẽ làm ăn rồi chuộc con. Hơn nữa, cái Tí cũng được vào nhà Nghị Quế sang giàu, tuy chẳng mong cao sang tốt đẹp gì nhưng như thế có khi còn hơn ở nhà. Với tất cả tình yêu dành cho chồng, cho con, chị Dậu chính là một người phụ nữ Việt Nam có những phẩm hạnh rất đáng quý và đáng trân trọng.
Ở nhân vật chị Dậu, người đọc còn thấy vẻ đẹp của một người phụ nữ giàu đức hy sinh. Cảnh nhà quẫn bách, chồng bị bắt trói vì không có tiền nộp sưu, chị Dậu phải cáng đáng vai trò là trụ cột trong cái gia đình khốn khổ ấy. Một mình chị phải chạy vạy khắp nơi, phải bán chó, bán con để lấy tiền nộp sưu cứu chồng khỏi vòng lao lý. Chị đã phải tất tả ngược xuôi, đổ bao mồ hôi nước mắt để đón chồng về trong cái tình trạng chỉ như cái xác không hồn. Thế nhưng, du khổ cực hay đau xót, người phụ nữ ấy chỉ rơi những giọt nước mắt lặng lẽ chứ không hề một lời kêu than. Một người phụ nữ Việt Nam thật nhân hậu, giàu đức hạnh và tình yêu!
Nhân hậu, giàu đức hạnh và tình yêu nhưng đó cũng chưa phải là tất cả vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu. Ở người phụ nữ này còn toát lên tinh thần phản kháng mãnh liệt. Chính trong cái tình cảnh chứng kiến người chồng chuẩn bị lôi đi, tình yêu chồng và lòng căm thù bọn ác bá cường hào đã thôi thúc chị vùng lên dữ dội.
Khi chị đã hết lời van xin nhưng tên cai lệ vẫn không tha cho, cố tình sấn đến định bắt anh Dậu thì lúc này chị Dậu đã cảnh cáo: "Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ". Câu nói đầy cứng rắn, có đủ tình, đủ lí nhưng không ngăn nổi cái ác tiếp diễn. Tên cai lệ sấn tới tát chị và chính cái tát ấy như lửa đổ thêm dầu, làm bùng lên ngọn lửa căm hờn, chị nghiến hai hàm răng: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!". Tên cai lệ chưa kịp làm gì thêm thì đã bị chị "túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất". Còn tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu "túm tóc, lẳng cho cho một cái, ngã nhào ra thềm".
Có thể thấy sự chuyển biến tâm lý và hành động rất mạnh mẽ ở nhân vật trong tình cảnh này. Từ một người phụ nữ nông thôn hiền lương, nghèo đói, luôn sợ sệt lũ tay sai thúc thuế, chị đã dám phản kháng chống lại uy quyền. Đến lúc này thì nỗi căm phẫn đã lên đến đỉnh điểm, nỗi sợ hãi cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, thay vào đó là một bản lĩnh quật khởi rất cứng cỏi: "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được".
Tức nước thì vỡ bỡ, có áp bức thì tất có đấu tranh là một quy luật tất yếu. Tuy vậy, sự đấu tranh của chị Dậu chỉ là hành động mang tính bộc phát chứ không có tính định hướng, cũng chưa có tính tập thể cho nên cuối cùng một mình chị vẫn không thể nào chống đỡ lại được cả một chế độ phong kiến thối nát, độc ác, chuyên quyền. Chị vẫn phải vùng chạy, lao vào màn đêm tăm tối như chính của cuộc đời của mình.
Đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" được coi là một trong những đoạn trích hay nhất của tác phẩm "Tắt đèn". Đoạn trích vừa làm nổi bật vẻ đẹp của một người phụ nữ yêu chồng thương con, giàu đức hy sinh và sức phản kháng mãnh liệt, vừa thông qua đó để lên án một xã hội cường quyền, áp bức bất công đẩy người nông dân thấp cổ bé họng vào đường cùng, buộc họ phải vùng lên tranh đấu.
Bên cạnh Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Giới thiệu về tiểu thuyết Tắt đèn và đoạn trích Tức nước vỡ bờ hay phần Qua những hình ảnh tàn bạo của những kẻ "thi hành công vụ". Em hãy nêu "hành động phản ứng" của chị Dậu là tất yếu nhằm củng cố kiến thức của mình.
Tác phẩm “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen khiến chúng ta sẽ không thể nào quên đi hình ảnh cô bé bán diêm với những ánh lửa diêm bé nhỏ le lói. Đó là một đêm giao thừa giá rét gắn với những mộng tưởng ngọt ngào và hạnh phúc nhất của cô bé nghèo khổ bất hạnh. Truyện đã kết thúc nhưng sức ám ảnh về những mộng ước và giấc mơ của cô bé vẫn đầy ắp, đặc biệt là cái chết của cô bé vẫn là sự hoài niệm trong tâm trí người đọc.
Câu chuyện kết thúc khi cảnh đời đang vui vẻ nhưng cô bé bán diêm lại có cái chết bi thảm. Trong đêm giao thừa hôm ấy, em chịu đói chịu rét cả một ngày mà không dám về nhà vì sợ cha đánh. Vì quá đói rét mà em đã chết với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Buổi sáng đầu năm mới, tuyết phủ kín mặt đất, khi mặt trời bắt đầu lên, bầu trời bắt đầu xanh, mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong sự háo hức và vui vẻ của mọi người thì em đã chết ở một xó tường nơi vỉa hè, nằm giữa những bao diêm và que diêm đã quẹt, hình ảnh đó xoáy sâu vào tâm can người đọc, đó cũng là kết thúc khác hoàn toàn so với những kết thúc của truyện cổ tích. Cô bé bán diêm chẳng có cái kết có hậu, cũng chẳng tìm được hạnh phúc ngay trong cuộc sống thực tại, ngược lại em đã phải chết một cách bi kịch, đầy xót thương.
Tuy nhiên, cái tài của nhà văn chính là viết bi kịch nhưng không gợi ra bi thảm và nỗi buồn cuộc đời của nhân vật. Bởi cô bé bán diêm đã ra đi trong niềm hạnh phúc vô bờ, sự mãn nguyện khi em được đến bên bà, được bà yêu thương và hết mực che chở. Hình ảnh em đã chết nhưng đôi má vẫn hồng và đôi môi vẫn đang mỉm cười là minh chứng cho việc em không chết, em chỉ bước từ thế giới đầy đắng cay, đen tối sang một thế giới tươi đẹp hơn.
Cũng chỉ có cái chết mới giải thoát được cuộc đời em khỏi những nỗi khổ, niềm vui sướng và hạnh phúc của em khi được ở bên bà, được bay lên về với Thượng đế chí nhân. Nhà văn An-đéc-xen đã thấu hiểu và trân trọng một các sâu sắc, bởi ông có tấm lòng thuộc về những con người khốn khổ, bất hạnh trong xã hội. Kết thúc của truyện tuy bi kịch nhưng lại tỏa sáng giá trị nhân văn.
Đối lập với sự bất hạnh trong cái chết của cô bé bán diêm chính là sự thờ ơ của người đời. Khi nhìn thấy những que diêm cháy dở kia, con người ta trở nên lạnh lùng, vô cảm, thiếu tình thương, chỉ thốt ra được một câu lạnh lùng: “Chắc nó muốn sưởi ấm”. Cô bé bán diêm thật đáng thương, chính trong xã hội vô cảm, thiếu tình thương giữa con người với con người này, nhà văn An-đéc-xen đã viết nên truyện này. Một phần để bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn với cô bé bán diêm nói chung và số phận của những con người khốn khổ trong xã hội nói chung, an ủi và xoa dịu nỗi đau của họ. Một phần cũng là để lên án và tố cáo sự vô tâm của những con người thiếu tình cảm trong xã hội.
Hình ảnh về cái chết của cô bé bán diêm luôn là hình ảnh xúc động nhất, dù cho nhà văn đã miêu tả đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Dù có khép lại trang sách thì hình ảnh của cô bé bán diêm vẫn còn đọng lại trong tâm hồn tất cả những ai đọc truyện.
Tác phẩm "Cô bé bán diêm" của An-đéc-xen khiến chúng ta sẽ không thể nào quên đi hình ảnh cô bé bán diêm với những ánh lửa diêm bé nhỏ le lói. Đó là một đêm giao thừa giá rét gắn với những mộng tưởng ngọt ngào và hạnh phúc nhất của cô bé nghèo khổ bất hạnh. Truyện đã kết thúc nhưng sức ám ảnh về những mộng ước và giấc mơ của cô bé vẫn đầy ắp , đặc biệt là cái chết của cô bé vẫn là sự hoài niệm trong tâm trí người đọc.
Câu chuyện kết thúc khi cảnh đời đang vui vẻ nhưng cô bé bán diêm lại có cái chết bi thảm. Trong đêm giao thừa hôm ấy, em chịu đói chịu rét cả một ngày mà không dám về nhà vì sợ cha đánh. Vì quá đói rét mà em đã chết với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Buổi sáng đầu năm mới, tuyết phủ kín mặt đất, khi mặt trời bắt đầu lên, bầu trời bắt đầu xanh, mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong sự háo hức và vui vẻ của mọi người thì em đã chết ở một xó tường nơi vỉa hè, nằm giữa những bao diêm và que diêm đã quẹt, hình ảnh đó xoáy sâu vào tâm can người đọc, đó cũng là kết thúc khác hoàn toàn so với những kết thúc của truyện cổ tích. Cô bé bán diêm chẳng có cái kết có hậu, cũng chẳng tìm được hạnh phúc ngay trong cuộc sống thực tại, ngược lại em đã phải chết một cách bi kịch, đầy xót thương.
Tuy nhiên, cái tài của nhà văn chính là viết bi kịch nhưng không gợi ra bi thảm và nỗi buồn cuộc đời của nhân vật. Bởi cô bé bán diêm đã ra đi trong niềm hạnh phúc vô bờ, sự mãn nguyện khi em được đến bên bà, được bà yêu thương và hết mực che chở. Hình ảnh em đã chết nhưng đôi má vẫn hồng và đôi môi vẫn đang mỉm cười là minh chứng cho việc em không chết, em chỉ bước từ thế giới đầy đắng cay, đen tối sang một thế giới tươi đẹp hơn.
Cũng chỉ có cái chết mới giải thoát được cuộc đời em khỏi những nỗi khổ, niềm vui sướng và hạnh phúc của em khi được ở bên bà, được bay lên về với Thượng đế chí nhân. Nhà văn An-đéc-xen đã thấu hiểu và trân trọng một các sâu sắc, bởi ông có tấm lòng thuộc về những con người khốn khổ, bất hạnh trong xã hội. Kết thúc của truyện tuy bi kịch nhưng lại tỏa sáng giá trị nhân văn.
Đối lập với sự bất hạnh trong cái chết của cô bé bán diêm chính là sự thờ ơ của người đời. Khi nhìn thấy những que diêm cháy dở kia, con người ta trở nên lạnh lùng, vô cảm, thiếu tình thương, chỉ thốt ra được một câu lạnh lùng: "Chắc nó muốn sưởi ấm". Cô bé bán diêm thật đáng thương, chính trong xã hội vô cảm, thiếu tình thương giữa con người với con người này, nhà văn An-đéc-xen đã viết nên truyện này. Một phần để bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn với cô bé bán diêm nói chung và số phận của những con người khốn khổ trong xã hội nói chung, an ủi và xoa dịu nỗi đau của họ. Một phần cũng là để lên án và tố cáo sự vô tâm của những con người thiếu tình cảm trong xã hội.
Hình ảnh về cái chết của cô bé bán diêm luôn là hình ảnh xúc động nhất, dù cho nhà văn đã miêu tả đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Dù có khép lại trang sách thì hình ảnh của cô bé bán diêm vẫn còn đọng lại trong tâm hồn tất cả những ai đọc truyện.
#Trang
Thuacj hiện theo 3 phương châm sau :
1. Hk để hiểu, ko hk lí thuyết xuông
2. Lm bài tập vận dụng
3. Hk để lấy kiến thức, ko hk vì điểm số
Rss Feed
Gửi bài viết qua email
In bài viết
Lưu bài viết
Vai trò của pháp luật đối với việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức ở nước ta hiện nay
Lê Thị Tuyết Ba(*)
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 10 (185), tháng 10 - 2006
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là phương tiện không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức.
Ảnh minh họa
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của nhà nước.
Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp tích cực khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyền. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội.
Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn gắn với giai cấp cầm quyền. Đối với xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp, mọi hoạt động của đời sống xã hội được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp thống trị. Trên thực tế, pháp luật của những nhà nước gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì thường phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ, vì nó bao hàm những chuẩn mực, những quy định nhằm bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Ngược lại, nếu pháp luật của nhà nước gắn với giai cấp đang suy tàn, không còn vai trò lịch sử thì thường chứa đựng yếu tố trì trệ, bảo thủ, đi ngược lại lợi ích chân chính. Trong trường hợp như vậy, pháp luật sẽ không phản ánh được những yêu cầu đạo đức tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại.
Trước đây, trong lịch sử, Nho giáo đã lấy đạo đức để răn dạy con người. Với chủ trương “đức trị”, Nho giáo đã “đạo đức hoá chính trị” và đề cao, thậm chí đến mức tuyệt đối hoá việc quản lý xã hội bằng cách nêu gương, cảm hoá, làm cho dân chúng an tâm và từ đó, hy vọng tạo nên sự ổn định xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng to lớn, tích cực đối với đời sống xã hội, Nho giáo cũng có những mặt hạn chế, tiêu cực và bảo thủ.
Đối lập với chủ trương “đức trị” là tư tưởng “pháp trị”. Thực tế cho thấy, đã từng có những vị vua dùng pháp luật để cai trị đất nước. Với chủ trương “pháp trị”, họ đã có những chính sách thiết thực, thưởng phạt phân minh, đưa xã hội đi vào cuộc sống có quy củ, vận hành theo khuôn khổ của phép nước. Tuy nhiên, cả tư tưởng “đức trị” và “pháp trị” thời phong kiến, bên cạnh mặt tích cực, đều có tính chất phiến diện. Thực ra, những tư tưởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau mà các thế lực thống trị sử dụng để củng cố địa vị và quyền lực của mình,
Trong xã hội không còn đối kháng giai cấp, nhà nước là người đại diện cho nhân dân lao động. Cho nên, hoạt động của nhà nước và hệ thống pháp luật tự thân đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức. Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con người; đồng thời, tạo điều kiện cho con người phát huy những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn trọng các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do đó, pháp luật cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Có thể nói, pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tại bình thường của xã hội nói chung và nền đạo đức nói riêng. Bởi lẽ, “pháp luật bao giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội”(1).
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức của xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn, thì quan hệ giữa con người với con người không thể chỉ là “mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về đạo đức”(2) như trước đây, mà nó cần được bổ sung những chuẩn mực, những giá trị mới, như tính kinh tế, tính hiệu quả… Ngay cả việc đánh giá đạo đức cũng cần phải dựa trên các tiêu chí mới đó, ngoài các thước đo vốn có.
Đối với nước ta hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự… đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật; đồng thời, xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học; chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm thông sang điều chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội. Trong quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học và duy lý thay cho sự tuỳ tiện vốn dựa trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật (với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật) làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng tạo của mình trong môi trường lành mạnh - môi trường vận hành có trật tự, nền nếp, kỷ cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu cầu tình cảm, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn mới.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Thực tế đó luôn đòi hỏi và thúc đẩy nâng cao trình độ dân trí, trình độ nghề nghiệp cho lực lượng lao động và xã hội hóa tri thức khoa học. Từ đó, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và của toàn xã hội cũng được nâng lên, làm cho khả năng điều chỉnh của đạo đức cũng biến đổi và phát triển theo chiều hướng tích cực. Sự biến đổi đó được biểu hiện ở tính duy lý cao hơn trong việc đánh giá, lựa chọn những giá trị và chuẩn mực đạo đức. Mỗi người trong hoạt động của mình đã có ý thức hơn trong việc tôn trọng pháp luật, có bản lĩnh hơn trong đấu tranh vì công bằng và lẽ phải; biết trân trọng và hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Có thể nói, việc chuyển sự điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội với thói quen theo “lệ” và nặng về đạo đức sang điều chỉnh bằng pháp luật, đề cao tính nhân bản là một trong những chuyển biến quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Bởi lẽ, việc hình thành ý thức pháp luật của mỗi công dân là điều kiện để nâng cao ý thức đạo đức và năng lực thực hiện những hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, đồng thời là cơ sở để phát triển đạo đức của xã hội.
Chúng ta đã biết, cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân chính, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và xã hội. Pháp luật tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội bằng những quy phạm, điều khoản quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Các quy phạm pháp luật quy định chi tiết các hành vi được phép và hành vi bị cấm đoán. Đồng thời, chúng còn xác định cụ thể các cách cư xử lẫn những hình phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi phạm. Ngoài ra, pháp luật còn thực hiện điều chỉnh mối quan hệ giữa con người và xã hội bằng sự bắt buộc, cưỡng chế từ bên ngoài. Trong khi đó, đạo đức lại điều chỉnh các mối quan hệ bằng dư luận xã hội, bằng sự giác ngộ và sự thôi thúc từ bên trong. Sự khác biệt nhưng lại thống nhất này là cơ sở để pháp luật và đạo đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Do vậy, có thể nói, pháp luật không những là công cụ để quản lý nhà nước, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức.
Thực tế những năm vừa qua ở nước ta cho thấy, hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những tác động rõ rệt đến đời sống xã hội. Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn “đề cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ”(3). Nói đúng hơn, đó là hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ bản của con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động. Vì vậy, các nguyên tắc định hướng cho việc xây dựng nội dung của hệ thống pháp luật, như công bằng, nhân đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội,… cũng chính là những nguyên tắc đạo đức cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã, đang và sẽ hướng tới. Có thể nói, pháp luật sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy phạm chung, giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng phát triển tiến bộ của thời đại.
Trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, kể cả Hiến pháp, các bộ luật và văn bản dưới luật thường có nhiều quy phạm pháp luật ghi nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”(4). Ngoài ra, các bộ luật, như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em,… đều được xây dựng trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, có thể nhấn mạnh rằng, pháp luật vừa là công cụ hữu hiệu trong việc bảo tồn những giá trị truyền thống, vừa góp phần bồi đắp nên những giá trị mới, trong đó có ý thức đạo đức.
Việt Nam vốn là một nước kém phát triển, lại đang chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện như vậy, sự ít hiểu biết về pháp luật của một bộ phận nhân dân cùng với những bất cập của hệ thống pháp luật đã dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ cương xã hội, coi thường pháp luật. Nạn tham nhũng và các hành vi làm ăn bất lương, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật đang ngày càng gia tăng. Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là “ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” đang là nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực tế nhức nhối đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu chặt chẽ và việc thi hành pháp luật còn chưa nghiêm, chưa công bằng. Trong bối cảnh như vậy, luật pháp cần phải tỏ rõ sức mạnh của mình để lập lại trật tự, kỷ cương. Bởi lẽ, “nếu đạo lý không đủ mạnh để thuyết phục thì pháp lý phải ra tay. Nếu dư luận xã hội chưa đủ độ để lên án thì luật pháp phải kết án”(5).
Những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã nỗ lực trong việc thanh tra, khám phá và đưa ra xét xử công khai nhiều vụ trọng án, kiên quyết trừng trị thích đáng những kẻ phạm tội, thu lại cho đất nước một lượng lớn tài sản. Việc làm đó không những được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ cái đúng, cái thiện, lên án cái sai, bài trừ cái ác, mà còn chứng tỏ vai trò vô cùng quan trọng của luật pháp trong việc bảo vệ nền đạo đức và lành mạnh hóa đời sống xã hội. Có thể nói, trong tiến trình đổi mới đất nước, pháp luật đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một số chuyển biến khả quan về mặt xã hội, góp phần không nhỏ trong việc củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế và lực đưa nước ta từng bước hội nhập với thế giới. Chúng ta cũng đang từng bước xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống luật pháp cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nhiều văn bản pháp luật và dưới luật được ban hành và đang đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Điều đó càng khẳng định một thực tế là, nếu như pháp luật ngày một hoàn thiện hơn, hoạt động tuyên truyền pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn và việc thực hiện ngày càng nghêm minh hơn thì ý thức pháp luật sẽ được nâng cao hơn, sự định hướng hành vi cho mọi công dân cũng sẽ tốt hơn.
Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn thiếu những quy định cần thiết trong lĩnh vực quản lý kinh tế và các quy định về quyền cơ bản của công dân. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng nếu như không nói là còn bị xem nhẹ. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành luật của các cơ quan chức năng còn nhiều bất cập; những kinh nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật còn nhiều hạn chế. Tâm lý tiểu nông, thói quen của người sản xuất nhỏ làm cho nhiều người còn mang nặng tư tưởng “phép vua thua lệ làng”. Điều đó lý giải tại sao trong đời sống xã hội vẫn còn không ít người chưa có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Trước đây, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: pháp luật không phải là để trừng trị con người, mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Đáng tiếc là, ở nước ta, vẫn còn một bộ phận dân chúng coi pháp luật là sự trói buộc mình nên đã có tâm lý trốn tránh pháp luật. Thực tế đó cũng làm cho việc thực thi pháp luật càng trở nên phức tạp hơn và chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp chưa thực sự công tâm, nghiêm minh, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật và tình trạng pháp luật bị buông lỏng đã tạo điều kiện cho những hiện tượng phản đạo đức xuất hiện, gây ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh và tiến bộ.
Pháp luật không loại trừ một ai và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Đứng trước pháp luật thì mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của con người theo hướng ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác và khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người. Việc thực thi pháp luật là nhằm xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, tiến bộ vì con người và cho con người. Với quan niệm như vậy, pháp luật và việc thực thi pháp luật là môi trường nuôi dưỡng và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề phải tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật. Việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật không chỉ nhằm lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng.
Trước hết, cần phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò của pháp luật trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ vấn đề này là một quá trình khó khăn và lâu dài. Trải qua thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII của Đảng đã nhấn mạnh rằng, cần phải “tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật”(6). Gần đây, Đại hội X của Đảng đã khẳng định rằng, chúng ta cần “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(7). Điều đó cho thấy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền đang trở thành vấn đề thực sự có ý nghĩa cấp bách trong điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Bởi vì, đây là vấn đề không những góp phần tăng cường cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và nuôi dưỡng ý thức đạo đức mới.
Thứ hai, chúng ta cần phải xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Phương châm chỉ đạo của Đảng ta là: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật”(8). Vấn đề này có liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu các giá trị, đặc biệt là các giá trị truyền thống. Thông qua quá trình đó, chúng ta có thể lựa chọn các chuẩn mực, các giá trị phù hợp để luật hóa chúng, biến thành những quy phạm chung của xã hội mà mỗi công dân đều có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh. Có thể nói, đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thực sự cấp bách trong quá trình xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, để nâng cao vai trò và hiệu quả của hệ thống pháp luật, ngoài các biện pháp trên, cần phải quan tâm đến chất lượng của các cơ quan làm luật và đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm, mà còn thiếu cả cái tâm của con người. Đã có không ít trường hợp cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xử lý không nghiêm những trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật. Do vậy, việc nâng cao chất lượng của các cơ quan này cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang là đòi hỏi cấp bách hiện nay.
Thứ tư, để tăng cường vai trò của pháp luật thì việc thực thi pháp luật phải nghiêm minh, công bằng. Đứng trước pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Tất cả mọi hành động vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm khắc. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người nghiêm chỉnh chấp hành. Trong thực thi pháp luật, về phía nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh, thưởng phạt phải rõ ràng; về phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều có nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật.
Thứ năm, cần tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào đời sống thông qua hoạt động giáo dục pháp luật. Bởi vì, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vẫn chưa thể đem lại hiệu quả cao nếu những quy định của nó không được mọi người biến thành hành động trong thực tế. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: việc công bố đạo luật chưa phải là đã xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Theo Người, việc giáo dục pháp luật là một trong những “công đoạn” hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra khả năng hình thành những nhu cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới; đồng thời, góp phần củng cố ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức; ngăn chặn các biểu hiện xâm phạm lợi ích chính đáng của người khác; khuyến khích những hành vi hợp pháp và hợp đạo lý.
Ngoài ra, để tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành ý thức đạo đức, cần phải đẩy mạnh hơn nữa các chương trình kinh tế - xã hội, như xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; phải khắc phục những thiếu sót trong các chính sách quản lý kinh tế - xã hội; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của đất nước và bối cảnh quốc tế. Mặt khác, cũng cần phải tăng cường hơn nữa lực lượng, phương tiện, kinh phí cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, xây dựng các cơ quan này thực sự trong sạch, vững mạnh.
Tóm lại, muốn xã hội ổn định và ngày càng phát triển, cần phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con người và của toàn xã hội. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định rằng, để góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải “hoàn chỉnh hệ thống pháp luật”, cụ thể là: “… tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”(9). Đó là cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
(*) Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
(1) G.Bandzeladze. Đạo đức học, t.1. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1985, tr. 177.
(2) Phạm Thị Ngọc Trầm. Bước chuyển đổi và mối quan hệ giữa các giá trị “chân” và “thiện” trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tạp chí Triết học, số 1, 1995, tr.25.
(3) Tô Huy Rứa. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tạp chí Cộng sản, số 22, 2005, tr.24.
(4) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Nxb Sự thật - Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1992, tr.13.
(5) Nhị Lê. Đạo lý. Tạp chí Cộng sản, số 13, 1999, tr.55.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.45.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.125.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.125.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.45.
Đã xem: 43624
Thời gian đăng: Thứ tư - 09/05/2018 15:51
Người đăng: Phạm Quang Duy
Bản quyền bài viết thuộc về Viện Triết học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Việc đăng lại bài viết này tại các website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không xin phép và ghi rõ nguồn http://philosophy.vass.gov.vn là vi phạm bản quyền.
Từ khóa:
đời sống, đặc biệt, quan trọng, phương tiện, thiếu bảo, tồn tại, đạo đức, thuận lợi, hiện nay, tăng cường, tất yếu, trật tự, kỷ cương, văn minh, bảo vệ
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
1
2
3
4
5
Click để đánh giá bài viết
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Bài được quan tâm
Bài mới nhất
Trang nhất Home Giới thiệu
© Copyright 2015 Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Phone: +84 4 3 5140527, +84 4 3 5141134
Fax: + 84 4 3 514 1935
Email: vnphilosophy@yahoo.com
Địa chỉ: 59 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội
Giấy phép số 211/GP-BC của Bộ VHTT cấp ngày 29 tháng 5 năm 2007
HOC24 Toggle navigation
Bài 5: Pháp luật và kỷ luật - Hỏi đáp
lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk
Người hay giúp bạn khác trả lời bài tập sẽ trở thành học sinh giỏi. Người hay hỏi bài thì không. Còn bạn thì sao?
D҉ṵ̃Ƴ。ɧưṅɠ 〄 Hôm qua lúc 20:53
Em hãy phân biệt pháp luật và kỉ luật ? Cho ví dụ ?
1 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Phùng Phương Linh 23 giờ trước (22:17)
- Pháp luật là luật lệ chung do nhà nước ban hành , cưỡng chế áp dụng cho phạm vi toàn xã hội.Vd: pháp luật luật do quốc hội soạn thảo thông qua và nhà nước ban hành có hiệu lực trên toàn quốc
-Kỉ luật là quy tắc riêng áp dụng hẹp trong một tổ chức , cơ quan , mn pai tuân theo.Vd:Nội quy trường học thì chỉ học sinh phải tuân theo còn những ng khác ko pai tuân theo
-> bài này tớ tự làm có j sai sót mong cậu thông cảm , bỏ qua nhé
Đúng 2 Bình luận Câu trả lời được cộng đồng lựa chọn Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...
Nguyễn Xuân Quang Hôm qua lúc 9:41
Nêu những quy định của kỷ luật không được trái với pháp luật
0 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Kim Ngân 11 tháng 10 2017 lúc 18:38
so sánh điểm giống và khác nhau giữa pháp luật và kỉ luật?lợi ích và sự cần thiết của pháp luật , kỉ luật?
Được cập nhật Hôm kia lúc 21:52 4 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
jeon jungkook 20 tháng 10 2017 lúc 19:31
Giống : Đều là những quy tắc
Khác: Pháp luật do nhà nước ban hành
Có tính bắt buộc
Mang tính phạm vi rộng
Kỉ luật :Do người đứng đầu của một cơ quan tổ chất , tập thể ban hành
Yêu cầu thực hiện
Mang tính phạm vi hẹp
Đúng 3 Bình luận Câu trả lời được cộng đồng lựa chọn Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...Bé Của Nguyên 11 tháng 10 2017 lúc 19:13
Giống : Đều là những quy định chung buộc mọi người phải tuân theo
Khác :
- Pháp luật : do Nhà nước ban hành , đk Nhà nước đảm bảo bằng các biện pháp giáo dục , thuyết phục , cưỡng chế .
- Kỉ luật : những quy định chung của 1 cộng đồng hay 1 tổ chức xã hội ( nhà trường , cơ quan ...)
Lợi ích và sự cần thiết : giúp cho m.n có 1 chuẩn mực chung để rèn luyện và thống nhất trong hoạt động . Ngoài ra , còn góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân và toàn xã hội phát triển theo 1 định hướng chung .
Đúng 7 Bình luận Câu trả lời được cộng đồng lựa chọn Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...Xem thêm câu trả lời khác
Sách Giáo Khoa SGK 3 tháng 4 2017 lúc 13:51
Câu 2 (SGK trang 15)
Bản nội quy của nhà trường, những quy định của một cơ quan có thể coi là pháp luật được không? Tại sao?
Được cập nhật Hôm kia lúc 21:47 3 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Linh Nguyễn 3 tháng 4 2017 lúc 17:15
Bản nội quy của nhà trường, những quy định của một cơ quan không thể coi là pháp luật vì nó không phải do nhà nước ban hành, và việc giám sát thực hiện không phải do cơ quan giám sát của nhà nước. Bản nội quy của nhà trường, những quy định của một cơ quan chỉ ở phạm vi hẹp có thể trường học này, cơ quan này có những quy định đó nhưng ở trường học khác, cơ quan khác lại không có những quy định đó. Trong khi đó pháp luật là quy tắc xử sự ở phạm vi rộng và bắt buộc mọi người phải thực hiện.
Đúng 5 Bình luận Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...Quách Tố Như Hôm qua lúc 17:07
Bản nội quy của nhà trường, những quy định của một cơ quan không thể coi là pháp luật.
Vì nó không phải do nhà nước ban hành, và việc giám sát thực hiện không phải do cơ quan giám sát của nhà nước. Bản nội quy của nhà trường, những quy định của một cơ quan chỉ ở phạm vi hẹp có thể trường học này, cơ quan này có những quy định đó nhưng ở trường học khác, cơ quan khác lại không có những quy định đó. Trong khi đó pháp luật là quy tắc xử sự ở phạm vi rộng và bắt buộc mọi người phải thực hiện.
Sach_giao_khoa! Quách Tố Như
Đúng Bình luận Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...Xem thêm câu trả lời khác
Nguyên Huỳnh 27 tháng 10 lúc 16:31
theo quy định của nhà trường thì học sinh nào trèo tường sẽ bị phạt. hôm ấy, quang và minh đi học muộn, cổng trường đã đóng nên hai cậu trèo tường vào và bị bác bảo vệ bắt được. Vi không muốn bị trường xử lí nên hai cậu nài nỉ bác bảo vệ tha và biếu bác chút tiền với lí do để bác mua đường bồi dưỡng! nhưng bac bảo vệ là một người công minh, đã không nhận hối lộ và báo với nhà trường về hành vi của hai bạn.
a theo em có nhận xét gì về hành vi của hai bạn quang minh và bác bảo vệ
b hành vi đó của hai bạn có phù họp với lứa tuổi học sinh không? vì sao?
ai giải nhanh hộ mình vơi!
0 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Nguyễn Thị Ngoãn 1 tháng 1 2018 lúc 20:39
những biểu hiện của việc chấp hành pháp luật và kỉ luật
Được cập nhật 27 tháng 10 lúc 11:18 2 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
OkeyMan 2 tháng 1 2018 lúc 13:18
- Giữ gìn, thực hiện nếp sông văn minh nơi công cộng, không hút thuốc lá, không gây mất trật tự, làm mất vệ sinh, vứt rác bừa bãi...
- Đảm bảo đúng nội quy khi đến thăm quan, học tập, vui chơi ở những nơi như bảo tàng, thư viện, công viên, rạp hát, trung tâm văn hóa...
- Bảo vệ môi trường, bảo vệ của công;
- Thực hiện tốt luật lệ an toàn giao thông: đi bên phải không lạng lách đánh võng, đi xe hàng hai hàng ba, đua xe, không vượt đèn đỏ, phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe gắn máy...
Đúng 3 Bình luận Câu trả lời được cộng đồng lựa chọn Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...OkeyMan 2 tháng 1 2018 lúc 13:20
Cả cái này nữa nhé!!
Biểu hiện của tôn trọng kỉ luật là sự tự giác, chấp hành mọi sự phân công của tập thể, chấp hành những quy định chung dù người đó là ai.
k mik nha
Đúng 4 Bình luận Nguyễn Thị Ngoãn đã chọn câu trả lời này. Báo cáo sai phạm
Lâm Đan 20 tháng 10 2018 lúc 20:25
neu nhung bien phap ren luyen tinh ki luat cua hoc sinh ???
Được cập nhật 25 tháng 10 lúc 9:09 1 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Băng Băng 2k6 CTV 25 tháng 10 lúc 9:44
#Nguồn: Băng
+ Học sinh phải tự giác, vượt khó, đi học đúng giờ, làm bài tập đầy đủtrước khi đến lớp, không quay cóp trong kiểm tra, thi cử.
+Tự kiểm tra, đánh giá việc lĩnh hội kiến thức, tự giác lập kế hoạch, tự bồi dưỡng, học hỏi để đạt mục tiêu kế hoạch học tập, không để thầy cô bố mẹ phiền lòng.
+Tự giác hoàn thành những công việc được giao, có trách nhiệm đối với mọi công việc chung và mọi người xung quanh, không bị sa ngã và bị cám dỗ bởi các tệ nạn xã hội, biết điều chỉnh kế hoạch cá nhân khi cần thiết.
Đúng Bình luận Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...
Trương Hà My 23 tháng 10 lúc 19:34
Có trường hợp sau: Ở lớp 8D có 2 học sinh thường xuyên không học bài và làm bài tập trước khi đến lớp, đã vậy lại còn nói chuyện , làm việc riên trong giờ học.
a) nhận xét về hành vi của 2 bạn trên.
b) việc làm đó vi phạm gì? các bạn đó phải chịu trách nhiệm cho việc làm của mình như thế nào?
c) thế nào là kỹ luật ?
1 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Nguyễn Văn Đạt CTV 24 tháng 10 lúc 5:42
a) Hai bạn trên chưa có tính kỷ luật vì không chấp hành nội quy của trường học.
b) Vi phạm vào kỉ luật. Các bạn đó tuân thủ theo quy định nếu không sẽ phải dùng các biện pháp như thuyết phụ, cưỡng chế, phạt ,....
c) Kỉ luật là những quy định xử sự chung của một cộng đồng hoặc của tổ chức xã hội yêu cầu mọi người phải tuân theo nhằm tạo ra sự thống nhất hành động để đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Đúng Bình luận Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...
Phạm Thái Hoàng 15 tháng 12 2017 lúc 19:31
Em hãy tự liên hệ xem bản thân đã có ý thức kỉ luật và tôn trọng phát luật chưa ? Em đã có những vi phạm gì ? ( ưu khuyết điểm trong việc chấp hành pháp luật , kỉ luật ). Biện phát khắc phục của em ?
Được cập nhật 22 tháng 10 lúc 22:40 0 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
ytr 22 tháng 10 lúc 20:44
Năm nay nam 14 tuổi đang học lớp 8 . Một ngày chủ nhật, bố mẹ nam đi vắng, bạn đã tự ý lấy chiếc xe đạp điện của mẹ rồi đèo hai bạn cùng lớp ra phố, cả ba đều không đội mũ bảo hiểm. Do phóng nhanh và cố tình lạn lách , đánh võng nên Nam đã va phải bà cụ đi đường , khiến cho bà bị thương và nhập viện
a) Theo em, Nam vi phạm pháp luật hay kỉ luật ? Tại sao?
b)Nếu em là cảnh sát giao thông thì em sẽ làm gì?
Mong mọi người trả lời nhanh !!!!
0 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Phuoc Le 15 tháng 12 2017 lúc 11:44
em can lam gi de ton trong phap luat va ki luat
Được cập nhật 22 tháng 10 lúc 7:32 3 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Quách Tố Như 25 tháng 10 lúc 19:42
- Học thuộc luật pháp, những điều luật pháp cho phép và nghiêm cấm.
- Phân tích và thấy rằng làm theo luật pháp là luôn đúng, luôn có lợi.
- Làm theo luật pháp quy định, không bao giờ trái quy định.
- Tôn trọng những quy đình dù là nhỏ nhất như: quy đinh của lớp trường, quy tắc ứng xử của xã hội. Việc này sẽ tạo tiền đề để có thể Tôn trọng pháp luật.
Chúc bạn hc tốt!
Đúng Bình luận Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...Không thích lòng vòng 22 tháng 10 lúc 20:26
ôi bạn này, cho mình hỏi cái ạ, cái câu trả lời của câu hỏi này lù lù ở trong sách giáo khoa thế mà bạn vẫn phải hỏi sao? chậc châc!
Đúng Bình luận Báo cáo sai phạm
Xem thêm câu trả lời khác
Duoc Nguyen 26 tháng 10 2017 lúc 5:29
Tan trường học sinh đỗ xe tràn xuống cả lòng đường, tập trung đứng thành hàng ba hàng bốn các bạn này không về nhà ngay mà còn đợi nhau và trò chuyện nên trưa nào cũng gây nên cảnh tác đường kéo dai.a) em nhận xét gì về hành vi của các bạn này?b) theo em hành vi của các bạn trên có vi phạm pháp luật không? Vì sao?
Được cập nhật 21 tháng 10 lúc 20:34 0 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Nguyên Huỳnh 19 tháng 10 lúc 14:58
tùng là một học sinh lười học, ham chơi. Tùng thường xuyên không học bài, làm bài trước khi đến lớp, mất trật tự trong giờ học. thầy cô và các bạn đã góp ý nhung tùng không sửa chữa. Dần dần chán lớp và các bạn, Tùng giao du với một sô học sinh hư của các trường khác và thường xuyên tụ tập phá phách. Tugn tham gia vào việc chấn lột tiền và đồ dùng học tập của các bạn. một lân Tùng đã gây gỗ đánh nhau với một bạn và làm bạn đóbị u đâu chảy máu
a theo em tùng có vi phạm pháp luật không? vì sao?
b em rut ra bài học gì qua câu chuyện của tùng?
2 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Võ Châu Minh Ngọc 21 tháng 10 lúc 19:41
ý kiến của mình thôi nhé.
a.Tùng đã vi phạm pháp luật về tội cố ý gây thương tích(có thể mức độ thương tích nhỏ)nhưng đã có hành vi bạo lực ,tính chất côn đồ.Ngoài ra Tùng còn có hành vi phi phạm kỉ luật.
b.một số bài học mà em rút ra đc
-không nên lười học,ăn chơi như vậy
-không nên giao du với những học sinh hư để tránh nhiễm những hành động đó
-tránh các trường hợp vi phạm pháp luật,vi phạm kỉ luật.
Đúng 1 Bình luận Câu trả lời được cộng đồng lựa chọn Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...Võ Châu Minh Ngọc 21 tháng 10 lúc 19:42
vi phạm
Đúng Bình luận 1 Báo cáo sai phạm
My Nguyễn 10 tháng 11 2018 lúc 10:24
Em hãy cho biết điểm khác nhau giữa pháp luật và kỉ luật? Là học sunh em cần làm gì để thực hiện tốt pháp luật và kỉ luật?
Được cập nhật 19 tháng 10 lúc 0:21 3 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Phùng Tuệ Minh 10 tháng 11 2018 lúc 11:04
- Pháp luật: Luật lệ mà nhà nước ban hành buộc mọi công dân trong nước đó cần thực hiện và tuân theo.
- Kỉ luật: Luật lệ của một tập thể, tổ chức đưa ra buộc mọi thanh viên trong tập thể, tổ chức đó cần tuân theo và chấp hành.
- Là một học sinh, để thực hiện tốt pháp luật và kỉ luật, em cần:
+ Hoàn thành nhiệm vụ mà tập thể, tổ chức,...giao cho.
+ Tôn trọng pháp luật và kỉ luật.
Đúng 2 Bình luận 1 Câu trả lời được cộng đồng lựa chọn Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...Phùng Hà Châu 10 tháng 11 2018 lúc 21:43
Pháp luật | Kỉ luật |
- Do nhà nước ban hành - Rộng, áp dụng với tất cả mọi người - Có tính cưỡng chế | - Do cơ quan, tổ chức ban hành - Hẹp, áp dụng với cá nhân nằm trong tổ chức đó - Không có tính cưỡng chế |
Rèn luyện:
- Biết tự kiềm chế, cầu thị, vượt khó, kiên trì, nỗ lực hàng ngày.
-Làm việc có kế hoạch
-Biết thường xuyên tự kiểm tra và điều chỉnh kế hoạch
-Luôn biết lắng nghe ý kiến của người khác và góp ý chân tình với bạn bè, đặc biệt nghe lời ông bà cha mẹ.
-Biết tự đánh giá và đánh giá những hành vi pháp luật và kỷ luật của bản thân và mọi người một cách đúng đắn.
-Biết theo dõi tình hình thời sự diễn ra xung quanh, biết học tập những tấm gương người tốt, việc tốt và biết tránh những tác động tiêu cực ngoài xã hội.
Đúng 1 Bình luận My Nguyễn đã chọn câu trả lời này. Báo cáo sai phạm
Đọc tiếp...Xem thêm câu trả lời khác
Susu Nguyên 1 tháng 11 2017 lúc 19:35
Học sinh phải làm gì để thực hiện tốt kỉ luật và pháp luật
Được cập nhật 19 tháng 10 lúc 0:20 3 câu trả lời
Giáo dục công dân lớp 8 Học kì 1Bài 5: Pháp luật và kỷ luật
Sao Nguyen 3 tháng 11 2017 lúc 9:28
tuân theo nội quy nhà trường
học thuộc 5 điều bác hồ dạy
lễ phép với người lớn
Đúng 2 Bình luận Câu trả lời được cộng đồng lựa chọn Báo cáo sai phạm
trần thị linh 1 tháng 11 2017 lúc 20:57
Tuân thủ nội quy nhà trường khi trong trường học
Tuân thủ pháp luật của nhà nước, tôn trọng pháp luật mà nhà nước đề ra
Đúng 2 Bình luận Câu trả lời được cộng đồng lựa chọn Báo cáo sai phạm
Xem thêm câu trả lời khác
Bảng xếp hạng môn Giáo dục công dân
(Bảng xếp hạng này do giáo viên h đánh giá)
Kết nối h trên facebook
Học trực tuyến cùng h.vn
Có thể bạn quan tâm
Tài trợ
Trung tâm Khoa học Tính toán - Trường ĐHSP Hà Nội © 2014 - 2018
Liên hệ: Hà Đức Thọ - Hotline: 0986 557 525 - Email: hdtho@h.vn
Điều khoản dịch vụ | Chính sách bảo mật | Chính sách bảo hành
- Xét về tự nhiên châu Á là châu lục lớn nhất thế giới, sự tập trung dân cư gắn với sự hình thành lãnh thổ lâu đời, hơn nữa châu Á cũng là một trong những cái nôi của loài người và có lịch sử khai thác lãnh thổ khá lâu đời.
- Châu Á tập trung các quốc gia rộng lớn và đông dân như Trung quốc, Liên Bang Nga.
- Châu Á là châu lục có điều kiện tự nhiên thuận lợi vì nằm trong khu vực hoạt động gió mùa, có đầy đủ các đới khí hậu xích đạo, cận xích đạo, nhiệt đới, cận nhiệt, ôn đới và hàn đới.
- Châu Á là nơi có nền văn hóa phát triển.
Tất cả sự thuận lợi về điều kiện tự nhiên và xã hội đã dẫn đến việc châu Á đông dân, ngoài ra do chiến tranh dẫn đến đói nghèo, dẫn đến tâm lý sinh bù, sinh dự trữ, và ngoài ra còn do hủ tục lạc hậu. Một vấn đề nữa là do tín ngưỡng tôn giáo.
- Về mặt số liệu: Số dân châu Á qua các năm như sau:
Năm 1950: 1,402 triệu dân.
Năm 2000: 3,683 tỷ dân.
Năm 2002: 3,766 tỷ dân.
Tỷ lệ tăng tự nhiên năm 2002 là 1,3%
Năm 2002, dân số châu Á gấp 5,2 lần châu Âu, gấp 117,7 châu Đại Dương.
Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của châu Á vào loại cao, 1,3%, bằng mức trung bình của thế giới, sau châu Phi và châu Mĩ.
- Xét về tự nhiên châu Á là châu lục lớn nhất thế giới, sự tập trung dân cư gắn với sự hình thành lãnh thổ lâu đời, hơn nữa châu Á cũng là một trong những cái nôi của loài người và có lịch sử khai thác lãnh thổ khá lâu đời
- Châu Á tập trung các quốc gia rộng lớn và đông dân như Trung quốc, LB Nga
- Châu á là châu lục có đktn thuận lợi vì nằm trong khu vực hoạt động gió mùa, có đầy đủ các đới khí hậu xđ, cận xđ, nhiệt đới, cận nhiệt, ôn đới và hàn đới.
Châu Á là nơi có nền văn hóa phát triển
---> Tất cả sự thuận lợi về đktn và xã hội đã dẫn đến việc châu Á đông dân, ngoài ra do chiến tranh -> đói nghèo -> tâm lý sinh bù, sinh dự trữ, và ngoài ra còn do hủ tục lạc hậu. Một vấn đề nữa là do tín ngưỡng tôn giáo. Nếu theo thiên chúa giáo họ sẽ không cho kế hoạch và bắt phải sinh đến hết trứng lun. nên các quốc gia có dân số đông thường có nhiều thành phần theo Thiên Chúa Giáovvvvv
Chứng minh:
KO tự tin thì ko làm được gì
VD: Mik làm bài đúng nhưng cô chấm sai ,ko tự tin lên nói với cô là cô chấm sai từ đó đánh mất hạnh kiểm!
ok tk cho mik
chúc mn halloween vui vẻ nha