Sự hình thành các quan điểm và thế giới quan triết học của C.Mác và Ph. Ăngghen
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đề thi đánh giá năng lực

Tuy nhiên nguyên liệu cho công nghiệp hóa chất hữu cơ ngày nay dựa chủ yếu vào dầu mỏ, vậy nên hiện nay các quốc gia trên thế giới đều cố gắng tranh giành các mỏ dầu.
cái này là dầu
chắc vậy

17,83 (anh mình làm, ko phải mình đâu. Nghe anh nói mà chả hiểu cái gì cả T_T)

Câu 1: Đốt cháy hoàn toàn 0,9 gam một loại gluxit X thu được 1,32 gam CO2 và 0,54 gam H2O. X là chất nào trong số các chất sau ?
A. glucozơ. B. saccarozơ C. tinh bột D. xenlulozơ

TL-----------
ĐÁP ÁN D NHÉ
HOK TỐT @@@@

Nhôm có đầy đủ tính chất hóa học của kim loại như:
- Tác dụng với phi kim:
+ Al tác dụng với O2 tạo thành nhôm oxit.
4Al + 3O2 2Al2O3
- Tác dụng với các phi kim khác:
Nhôm tác dụng với một số phi kim tạo thành muối nhôm.
2Al + 3Cl2 2AlCl3
- Tác dụng với dung dịch axit:
Nhôm tác dụng với một số dd axit (HCl, H2SO4 loãng …) tạo thành muối và giải phóng khí H2.
2Al + 6HCl → 2AlCl3 + 3H2 ↑
- Tác dụng với dung dịch muối:
Nhôm tác dụng với dung dịch muối của những kim loại có hoạt động hóa học yếu hơn (trong dãy hoạt động hóa học của kim loại) tạo ra muối nhôm và kim loại mới.
2Al + 3CuSO4 → Al2(SO4)3 + 3Cu ↓
- Tác dụng với dung dịch kiềm:
Ngoài những tính chất hóa học trên, nhôm còn tác dụng được với dung dịch kiềm như NaOH, KOH…
2Al + 2NaOH + 2H2O → 2NaAlO2 + 3H2 ↑
Các bạn nêu ví dụ và thí nghiệm
Cái này ko giống lớp 1 đến 11 nhé
Bạn ko tích mk cũng đc
Sự hình thành triết học Mác chia làm hai giai đoạn cơ bản:
1) Quá trình hình thành dần dần các quan điểm triết học, sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học. Quá trình này hoàn thành vào năm 1844.
2) Khởi thảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ ngĩa duy vật lịch sử. Quá trình này hoàn thành vào năm
với sự xuất hiện tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản".
Trong thời đại của Mác và Ăngghen, quá trình phát triển triết học Mác lại được chia làm hai giai đoạn: 1) Từ 1848 đến Công xá Pari 1871; 2) Từ 1871 cho đến 1895.
Các Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở Tơrivơ của nước Đức. Bố ông là luật sư, đánh giá cao phái khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và chế độ dân chủ tư sản đã được xác lập ở Pháp, nhưng không có khuynh hướng cách mạng. Ông có một ảnh hưởng lớn đến việc học tập và phấn đấu của Mác. Năm 1835, C.Mác vào học luật ở Trường đại học Bon và qua một năm chuyển sang học ở Trường đại học Béclin. Ở đây, ông chuyển sang nghiên cứu lịch sử và triết học. Cha ông muốn ông trở thành luật sư, một viên chức nhà nước. Nhưng ngay từ thời sinh viên, Mác đã là người chống lại chế độ xã hội đang thống trị ở Đức hồi đó.
Tác phẩm khoa học đầu tiên của ông hồi trẻ là luận án tiến sĩ. Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya được bảo vệ năm 1841. Trong tác phẩm này, Mác còn đứng trên lập trường duy tâm của Hêghen. Ông coi sự phát triển của tự ý thức của con người là động lực phát triển của lịch sử nhân loại. Nhưng ngay việc lựa chọn đề tài luận án, sự quan tâm của Mác đối với các nhà duy vật cổ đại đã nói lên sự bất đồng của ông với Hêghen. Trong khi nhấn mạnh cuộc đấu tranh của Êpiquya chống tôn giáo, tuyên truyền chủ nghĩa vô thần, Mác đánh giá cao vai trò của ông trong lịch sử triết học. Mác phê phán nghiêm khắc thái độ miệt thị Êpiquya vẫn có từ trước đến nay trong chủ nghĩa duy tâm và chứng minh rằng, Êpiquya đã làm phong phú thêm nguyên tư luận của Đêmôcrít. Trong bản luận án cũng bộc lộ rõ cố gắng của Mác để vượt ra ngoài giới hạn quan niệm của Hêghen và phái Hêghen trẻ về vấn đề quan hệ của tư duy với hiện thực xung quanh ở bên ngoài. Theo Mác, sự thống nhất của tự ý thức và hiện thực bên ngoài phải trải qua những trình độ khác nhau: sự hoà hợp, kết quả của sự phát triển của tự ý thức, được thay thế bằng một cuộc xung đột sâu sắc mà không thể giải quyết bằng con đưòng lý luận, bằng sự phê phán. Cách giải quyết bằng thực tiễn, bằng cách mạng sự xung đột đó lại xác lập trở lại một thời gian nhất định sự hoà hợp giữa tự ý thức và tồn tại, nhưng sự hoà hợp đó không thể là tuyệt đối, không thể là vĩnh viễn. Những lập luận đó của Mác còn xa với quan niệm duy vật biện chứng nhưng đã chứa đựng mầm mống của quan niệm sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa ý thức và tồn tại thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Mác đã sớm ý thức được rằng, triết học phải đấu tranh chống lại tất cả các vị thần ở trên trời và ở trần thế, phải phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị thực tiễn nhằm giải phóng nhân loại bị áp bức. Đó cũng là chỗ phân phân biệt Mác với Hêghen và phái Hêghen trẻ. Chính vì vậy, Mác đã đặt cơ sở để cải tạo phép biện chứng Hêghen theo tinh thần cách mạng, ông nói rằng, phép biện chứng là "dòng suối cuồn cuộn" phá vỡ và lật đổ những hình thức tồn tại bị hạn chế, hữu hạn về mặt lịch sử. Tư tưởng này hoàn toàn đối lập với quan niệm của Hêghen, tức là quan niệm cho rằng: quá trình lịch sử toàn thế giới đã được hoàn thiện bởi Nhà nước Phổ và triết học của ông ta đã đạt tới đỉnh cao tuyệt đối.
Mác cũng hiểu rằng, ý chí cách mạng của ông không tương hợp với công việc giảng dạy ở trường đại học của Đức; vì vậy, ông đã từ chối không nhận chức giáo sư ở trường Đại học Bon, mà trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh chính trị. Vào năm 1842, ông trở thành biên tập viên của "Báo Sông Ranh". Dưới sự lãnh đạo của ông, tờ báo đã trở thành cơ quan của phái dân chủ - cách mạng.
Như vậy, ngay từ buổi đầu hoạt động sáng tạo của mình, Mác vẫn còn đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm, chịu ảnh hưởng của Hêghen và phái Hêghen trẻ. Song, khuynh hướng dân chủ cách mạng của Mác hoàn toàn xa lạ với họ và sự bất đồng của Mác với Hêghen và phái Hêghen trẻ bộc lộ ra trên những vấn đề cơ bản nhất của triết học mà ở thời kỳ này ông chưa thể giải thích được một cách đầy đủ và rõ ràng.
Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen cũng hình thành một cách độc lập với C.Mác. Phriđrích Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 ở thành phố Bácmên (Đức), trong một gia đình chủ xưởng sợi. Ông không được học đại học, thậm chí ngay cả trung học, bố ông cũng không cho ông học hết và muốn ông sớm trở thành nhà kinh doanh. Năm 1838, Ăngghen được phái đi làm thư ký nhà buôn ở Brêmen. Ông đã kiên trì tự học, tham gia hoạt động khoa học và chính trị và tự chọn con đường cách mạng của cuộc đời mình. Lòng yêu tự do có tính chất dân chủ cách mạng đưa ông tới niềm tin về những cải biến xã hội do nhân dân thực hiện và giúp ông chuyển từ lập trường tôn giáo sang lập trường của chủ nghĩa vô thần. Trong khi công khai đứng trên lập trường của chủ nghĩa dân chủ cách mạng, năm 1839, Ăngghen xuất bản Những bức thư từ Vesphali, trong đó ông đả kích bộ mặt sùng đạo của bọn chủ xưởng và tỏ ra có thiện cảm sâu sắc với công nhân. Nhưng lúc này, Ăngghen chưa phân biệt được giai cấp công nhân như là một giai cấp đặc biệt được giai cấp công nhân như một giai cấp đặc biệt trong đám quần chúng bị bóc lột và bị áp bức. Năm 1841, Ăngghen đi Béclin làm nghĩa vụ quân sự, làm quen với những người thuộc phái Hêghen trẻ và đứng vào hàng ngũ của họ. Trong khi nghiên cứu triết học Hêghen, ông luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vượt qua triết học này để đi tới một thế giới quan thực sự cách mạng gắn liền với cuộc đấu tranh thực tiễn của nhân dân. Trong khi phê phán triết học về sự linh báo của Senlinh, mặc dù còn ở lập trường duy tâm chủ nghĩa, ông đã thấy sự mâu thuẫn trong triết học Hêghen giữa tiến bộ và bảo thủ, tuy chưa thấy được mâu thuẫn giữa phương pháp và hệ thống; ông thấy triết học Phoiơbắc có tính chất triệt để hơn các nguyên lý triết học của Hêghen, mặc dù chứa thấy sự đối lập về nguyên tắc giữa chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và chủ nghĩa duy tâm Hêghen. Về nhiệm vụ của triết học, Ăngghen cho rằng: cần phải kết hợp triết học với đấu tranh chính trị thực tiễn. Cuối năm 1842, Ăngghen sang Anh, ở Mansestơ, làm công trong một xưởng sợi mà bố ông là một trong những người chủ xưởng. Ở đây, ông bắt đầu nghiên cứu kinh tế - chính trị học cổ điển Anh, trực tiếp nghiên cứu phong trào công nhân ở nước công nghiệp phát triển nhất thời kỳ đó.
Như vậy, ngay từ bước đầu hoạt động khoa học và chính trị, Mác và Ăngghen vẫn còn đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng; mặc dù vậy, các ông đã cố gắng để vượt ra khỏi khuôn khổ của nó song chưa thực hiện được.
Giai đoạn mới trong hoạt động của Mác bắt đầu từ thời kỳ làm biên tập viên Báo Sông Ranh (cuối 1842 đến đầu 1843). Chủ để cơ bản của những bài báo của Mác là bảo vệ lợi ích của những người lao động. Những bài báo về chế độ kiểm duyệt, về chế độ đại diện phân chia đẳng cấp, về sự ức hiếp nông dân nghèo, về tình trạng bần cùng của nông dân, về tệ quan liêu của các quan chức... đã làm cho Chính phủ phản động Phổ để ý theo dõi và mùa Xuân 1843, chúng ra lệnh đóng cửa tờ báo vì bị kết tội tuyên truyền cách mạng và thậm chí tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Mác bác bỏ lời buộc tội đó và nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa cộng sản đề ra vấn đề mang tính chất thời đại, ý nghĩa của nó ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của xã hội, nhất là của công nghiệp, vì thế, ông không có quyền làm ngơ không biết đến chủ nghĩa cộng sản.
Thời gian làm báo này tuy rất ngắn nhưng đã giúp ông khắc phục những phương diện tiêu cực trong ảnh hưởng của triết học Hêghen. Trong cuộc đấu tranh dân chủ cách mạng cho lợi ích của nhân dân lao động, Mác nhận ra ngày càng rõ rệt tính chất bảo thủ của lý tưởng xã hội; sự mâu thuẫn giữa hệ thống và phương pháp; tính không vững chắc trong nguyên lý lý luận xuất phát về sự thống nhất của tồn tại và tư duy của Hêghen. Mác chống lại Nhà nước Phổ phản động; đồng thời cũng có nghĩa là ông đoạn tuyệt với sự tuyệt đối hoá nhà nước nói chung theo quan điểm duy tâm của Hêghen, với sự miêu tả mọi nhà nước như là cơ thể hợp lý, hợp đạo đức và với sự thỏa hiệp của Hêghen đối với trật tự hiện có. Trong thời gian hoạt động ở Báo Sông Ranh, Mác chú ý đến đời sống kinh tế của xã hội mà Hêghen và phái Hêghen trẻ coi như là một cái gì thứ yếu so với nhà nước, tôn giáo, đời sống tinh thần của xã hội nói chung. Nhờ đó, Mác nhìn thấy không những tính chất phản động trong sự thỏa hiệp của Hêghen đối với chế độ hiện hành, mà cả tính chất vô căn cứ của chủ nghĩa chủ quan của phái Hêghen trẻ tách rời hiện thực, không dựa vào những động lực vốn có của hiện thực. Vì thế, không bao lâu sau đó, Mác đã đoạn tuyệt với phái Hêghen trẻ ở Béclin. Mặt khác, Mác cũng nhận thấy rằng, phép biện chứng của Hêghen không đáp ứng được trình độ nghiên cứu các vấn đề thực tiễn, không vạch ra được những nguyên nhân và nguồn gốc sâu xa của các vấn để thực tiễn. Từ đó, Mác hướng theo con đường cải tạo mang tinh thần cách mạng phép biện chứng của Hêghen, phát triển một cách có phê phán "hạt nhân hợp lý" của phép biện chứng đó.
Như vậy, ở thời kỳ này, Mác ngày càng xa rời chủ nghĩa duy tâm. Lênin nhận xét rằng, Báo Sông Ranh năm 1842 đã để lộ rõ bước đầu chuyển hướng của Mác từ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang thế giới quan mới, sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Lútvích Phoiơbắc có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành thế giới quan của Mác và Ăngghen năm 1842 - 1843, chính Phoiơbắc trước kia là người tán thành triết học của Hêghen và thuộc phái Hêghen trẻ. Nhưng về sau, ông đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm...
Quá trình hình thành dần dần các quan điểm triết học, sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học. Quá trình này hoàn thành vào năm 1844.