K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

 Thuở ấy thế gian chỉ mới có các vị thần. Mặt đất mênh mông dẫu đã có khá nhiều vị thần cai quản song vẫn còn hết sức vắng vẻ. Không muốn để tình cảnh buồn tẻ đó kéo dài, bữa kia hai anh em Prômêtê và Êpimêtê xin với Uranôx và Gaia tạo ra cho thế gian thêm nhiều nhiều cái gì đó để cho cuộc sống đông vui. Uranôx và Gaia ưng thuận. Hai vị giao luôn việc đó cho hai anh em Prômêtê và Êpimêtê. Cậu em, Êpimêtê mừng...
Đọc tiếp

 Thuở ấy thế gian chỉ mới có các vị thần. Mặt đất mênh mông dẫu đã có khá nhiều vị thần cai quản song vẫn còn hết sức vắng vẻ. Không muốn để tình cảnh buồn tẻ đó kéo dài, bữa kia hai anh em Prômêtê và Êpimêtê xin với Uranôx và Gaia tạo ra cho thế gian thêm nhiều nhiều cái gì đó để cho cuộc sống đông vui. Uranôx và Gaia ưng thuận. Hai vị giao luôn việc đó cho hai anh em Prômêtê và Êpimêtê. Cậu em, Êpimêtê mừng quá, tranh ngay lấy đất và nước nhào nặn ra, trước hết, là các loài vật và ban cho mỗi con vật một đặc ân của thần, một "vũ khí" để có thể phòng thân, hộ mệnh, bảo vệ được cuộc sống của giống loài mình. Con thì được ban cho ân huệ chạy nhanh như gió. Con thì có đôi mắt sáng xanh nhìn thấu cả đêm đen. Con thì có thân hình khổng lồ mạnh khỏe hết chỗ nói. Có con thân hình bé nhỏ nhưng lại có nọc độc gớm ghê. Rồi con có bộ lông dày, con có sải cánh rộng. Con thì xuống nước không chìm, con thì trèo leo thoăn thoắt... Tóm lại mỗi con vật, mỗi giống loài đều có "vũ khí" cần thiết để sống được ở thế gian.

        Công việc làm xong xuôi, Êpimêtê gọi Prômêtê đến để xem xét lại. Mọi việc đều tốt, rất tốt nữa là đằng khác. Nhưng xem kỹ ra thì tai hại thay, còn sót lại một con, một con mà chàng Êpimêtê đần độn lại quên mất chẳng ban cho một đặc ân, một thứ "vũ khí" gì. Đó là con người! Một con người, nhưng trần trụi, trần trụi hoàn toàn. Phải, đúng là một con người trần trụi hoàn toàn trước mặt Prômêtê. Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào để con người sống được ở thế gian khi các "nguyên liệu" đặc ân đã sử dụng phân phối hết rồi? Con người sẽ sống thế nào trước các con vật: hổ, báo, voi, sói, vẹt, nhím, gấu, ngựa, sư tử, cá, chim... là những con vật đã được sáng tạo hoàn hảo? Là những con vật đã được ban cho đặc ân của thần thánh? Và rồi còn phải đương đầu với nắng, mưa, bão tố, núi lửa phun, nước sông dâng, đất liền phút chốc thành biển cả, bãi bể hóa nương dâu... biết bao biến thiên, tai họa khôn lường? Prômêtê đã nghĩ như thế. Và vị thần có bộ óc thông minh, có tài nhìn xa trông rộng này quyết sửa chữa bằng được cái thiếu sót của chú em lơ đễnh, đần độn của mình. Prômêtê dựa theo thân hình trang nhã của các vị thần tái tạo lại con người cho có một thân hình đẹp đẽ thanh tao. Phải làm cho con người đẹp đẽ thanh tao hơn hẳn con vật. Prômêtê lại làm cho con người đứng thẳng lên, đi bằng hai chân để đôi tay được thảnh thơi làm nhiều việc khác. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Con người vẫn còn bấy yếu và thua kém nhiều so với các con vật. Phải làm cho con người mạnh hơn hẳn con vật thì nó mới có thể sống được trong thế gian này. Prômêtê liền băng ngay lên bầu trời cao xa tít tắp, đến tận cỗ xe của thần Mặt Trời Hêliôx, lấy lửa của thần Mặt Trời châm vào ngọn đuốc của mình đem xuống trao cho loài người. Và thế là từ đó, thế gian, mặt đất lúc nào cũng rực cháy ngọn lửa của Prômêtê ban cho. Con người thoát khỏi cảnh sống tăm tối, giá lạnh, đói khát. Ngọn lửa trở thành người bạn thân thiết, người bảo vệ chắc chắn nhất, một vũ khí mạnh nhất của loài người. Ngọn lửa của con người hơn hẳn bộ lông dày, hàm răng sắc, cặp móng nhọn, thân hình đồ sộ, khỏe mạnh, tài bay cao, nhìn xa, chạy nhanh như bất cứ con vật nào.      Và với ngọn lửa của Prômêtê, con người, thế hệ này qua thế hệ khác, tạo dựng cuộc sống của mình ngày càng văn minh hạnh phúc hơn.

Và từ đó dẫu mong manh và yếu đuối.

Giống loài người đã có ngọn lửa của Prômêtê.

Ngọn lửa thiêng dạy họ biết bao nghề.

                                                         (Theo, Nguyễn Văn Khỏa, Thần thoại Hi Lạp, tập 1)
II.Viết(6,0 điểm)
Câu 1:(2,0 điểm) Anh/chị hãy viết đoạn văn nghị luận(khoảng 200 chữ) làm rõ đặc điểm của nhân vật thần thoại qua nhân vật Prô-mê-tê trong văn bản phần Đọc Hiểu
Câu 2:(4,0 điểm) 
   Suy nghĩ về việc học, nhà bác học Anh-xtanh từng khẳng định: Điều quan trọng nhất là không ngừng đặt câu hỏi
  Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận khoảng 600 chữ trình bày suy nghĩ của mình về câu nói trên

0
3 tháng 12

Trong xã hội hiện đại, vai trò của giáo viên nói chung và giáo viên dạy môn Văn nói riêng ngày càng trở nên quan trọng. Họ không chỉ là người truyền đạt kiến thức, mà còn là những người góp phần hình thành nhân cách, tư duy và cảm xúc của học sinh. Vẻ đẹp của giáo viên dạy môn Văn thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau, từ tâm hồn, tri thức đến phương pháp giảng dạy.

Trước hết, giáo viên dạy môn Văn thường là những người có tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc. Họ hiểu rằng Văn học không chỉ là những con chữ mà còn là những cảm xúc, những trải nghiệm sống. Từ những tác phẩm văn học, giáo viên giúp học sinh khám phá thế giới nội tâm của nhân vật, từ đó liên hệ với cuộc sống của chính mình. Những buổi học Văn không chỉ đơn thuần là phân tích tác phẩm, mà còn là những giờ phút được sống trong thế giới của những câu chuyện, những bài thơ, giúp học sinh mở rộng tầm nhìn và cảm nhận sâu sắc hơn về cuộc sống.

Thứ hai, giáo viên dạy môn Văn thường là những người có tri thức phong phú và khả năng truyền cảm hứng. Họ không chỉ dạy về ngữ pháp, từ vựng hay cấu trúc câu mà còn dẫn dắt học sinh vào những cuộc thảo luận sôi nổi về các vấn đề xã hội, nhân văn. Qua những bài giảng, giáo viên giúp học sinh hiểu rõ hơn về văn hóa, lịch sử và con người. Họ khơi dậy niềm đam mê đọc sách, khám phá văn học, từ đó hình thành thói quen tư duy phản biện và khả năng phân tích sâu sắc.

Ngoài ra, phương pháp giảng dạy của giáo viên dạy môn Văn cũng rất đặc biệt. Họ thường sử dụng những hình thức dạy học sáng tạo, khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình học tập. Những hoạt động như thảo luận nhóm, diễn kịch hay viết sáng tác không chỉ giúp học sinh hiểu bài mà còn phát triển kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm. Giáo viên dạy Văn còn là những người biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của học sinh, từ đó tạo ra một môi trường học tập thân thiện và cởi mở.

Cuối cùng, vẻ đẹp của giáo viên dạy môn Văn còn nằm ở sự tận tâm và lòng yêu nghề. Họ luôn nỗ lực để mang đến cho học sinh những bài học bổ ích, không chỉ về kiến thức mà còn về nhân cách và đạo đức. Họ là những người thắp sáng ngọn lửa đam mê học tập trong tâm hồn học sinh, giúp các em nhận ra giá trị của văn học và cuộc sống.

Tóm lại, giáo viên dạy môn Văn không chỉ đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà còn là những người nghệ sĩ, những nhà tâm lý học, những người thầy tận tâm. Vẻ đẹp của họ không chỉ thể hiện qua những bài giảng hay mà còn ở khả năng chạm đến trái tim và tâm hồn của học sinh. Chính vì vậy, họ xứng đáng được trân trọng và yêu mến trong xã hội hiện đại.

2 tháng 12

Nhân vật chữ tình trong bài thơ "Cúc kêu cảm hứng" của Nguyễn Khuyến là một hình tượng rất đặc biệt, mang đậm chất trữ tình, đồng quê và gắn bó sâu sắc với thiên nhiên. Nhân vật này không chỉ là con chim cuốc mà còn là biểu tượng của lòng trung thành, nỗi nhớ quê hương và những cảm xúc lắng đọng trong lòng người Việt Nam mỗi khi nghĩ về quê hương.

Trong bài thơ, tiếng kêu của chim cuốc vang lên giữa khung cảnh thanh bình của làng quê Việt Nam, nhắc nhở về một mùa màng bội thu và những ký ức ngọt ngào của tuổi thơ. Tiếng kêu ấy không chỉ đơn thuần là âm thanh của thiên nhiên mà còn là tiếng gọi của tâm hồn, đưa con người trở về với những giá trị cội nguồn, bình dị và chân thật nhất. Nhân vật chữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến thể hiện sự gắn bó sâu sắc với quê hương, với cảnh vật và con người nơi đó. Qua đó, tác giả cũng gửi gắm tình yêu và lòng tự hào về quê hương, đất nước.

Nguyễn Khuyến đã khéo léo dùng hình ảnh chim cuốc để tạo nên một nhân vật trữ tình đầy ý nghĩa, vừa gợi nhớ, vừa truyền tải những giá trị tinh thần sâu sắc. Bài thơ "Cúc kêu cảm hứng" với hình tượng chim cuốc đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn người yêu thơ Việt Nam.

3 tháng 12

Giúp mình với ạ

Câu 1. (2 điểm)      Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử.  Câu 2. (4 điểm)      Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích sau: (Tóm tắt: Thời buổi chiến loạn, Thị Phương cùng mẹ chồng phải chạy rừng thẳm để lánh nạn. Mẹ chồng đau ốm, Thị Phương...
Đọc tiếp

Câu 1. (2 điểm)

     Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử. 

Câu 2. (4 điểm)

     Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích sau:

(Tóm tắt: Thời buổi chiến loạn, Thị Phương cùng mẹ chồng phải chạy rừng thẳm để lánh nạn. Mẹ chồng đau ốm, Thị Phương tình nguyện dâng đôi mắt mình cho thần linh để đổi lấy thuốc cứu mẹ.)

Thị Phương: (Nói sử)  - Trình lạy ông, khoan khoan, rẽ rẽ

                                      Để tôi xin dẫn nỗi sự tình

                                      Ông sinh phúc mở lòng nhân đức

Thần linh:                    - Ta ăn mắt già, không ăn mắt trẻ.

Thị Phương: (Nói sử)  - Mẹ chồng tôi đã bẩy mươi ba

                                      Già mong trẻ để mà trông cậy

                                      Chồng tôi khi ấy

                                      Đi thú nước Xiêm

                                      Vắng mặt khuất tin

                                      Sự nhà không viết

                                      Tử sinh lưỡng biệt

                                      Chồng một nơi, vợ lại một nơi

                                      Ông chẳng thương đến mẹ con tôi

                                      Nguyện thiên địa: tôi xin dâng mắt. 

(Thổ địa ra khoét mắt Thị Phương.)

Thị Phương: (Hát vãn) - Khoét mắt dâng thần

                                      Huyết rơi lai láng cực lòng con thay

                                      Ông hưởng lấy mắt này

                                      Xin ông phù hộ, mẹ tôi rày được bình an

Thần linh: (Nói)           Khen Thị Phương con người có nghĩa lại có nhân

                                      Thương mẹ chồng khoét mắt dâng thần

                                      Tai nạn ấy sau này ắt khỏi

                                      - Truyền thổ địa, hạt điện môn!

                                      [...]

Mụ:                                - Giời ơi, ông ấy khoét mắt con tôi

Thị Phương:                - Mẹ ở đâu, mẹ dắt con với mẹ ơi!

                                      (Hát vãn) Khi xưa con dắt mẹ đi

                                      Bây giờ mù mịt, mẹ thì dắt con

Mụ: (Hát tiếp)               - Có sinh, có đẻ cho cam

                                      Nàng dâu nuôi mẹ thế gian mấy người.

(Trích Trương Viên, in trong Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, NXB Sân khấu, 1999)

1
2 tháng 12

Câu 1: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử.

Trong thời đại số hiện nay, các sàn thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, mang lại sự tiện lợi trong việc mua sắm. Tuy nhiên, nhiều người lại rơi vào thói quen mua sắm không kiểm soát, khiến bản thân rơi vào tình trạng chi tiêu vượt quá khả năng. Việc này không chỉ gây thiệt hại về tài chính mà còn làm giảm chất lượng cuộc sống. Khi mua sắm không cần thiết, chúng ta sẽ dễ dàng tích lũy những món đồ không sử dụng đến, từ đó lãng phí tiền bạc và không gian sống. Hơn nữa, sự phụ thuộc vào việc mua sắm qua mạng có thể dẫn đến cảm giác thiếu thốn, lo âu, và không kiểm soát được nhu cầu thực sự. Để khắc phục điều này, mỗi người cần tự ý thức về nhu cầu của bản thân, xác định rõ ràng những gì thật sự cần thiết và có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Chỉ khi biết tiết chế và mua sắm có trách nhiệm, chúng ta mới có thể đảm bảo một cuộc sống ổn định, hài hòa về tài chính và tâm lý.

Câu 2: Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích trên.

Trong văn học Việt Nam, nhân vật Thị Phương trong đoạn trích từ tác phẩm chèo cổ "Trương Viên" của tác giả Hà Văn Cầu là hình mẫu điển hình của người phụ nữ nhân hậu, hi sinh vì gia đình và có tấm lòng vĩ đại. Qua lời nói, hành động và tâm trạng của nhân vật, người đọc có thể cảm nhận được sự hy sinh cao cả và tình thương yêu vô bờ của Thị Phương dành cho mẹ chồng trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh loạn lạc.

Trước hết, Thị Phương là một người phụ nữ hết lòng vì gia đình. Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, Thị Phương và mẹ chồng phải chạy trốn trong rừng sâu để tránh hiểm nguy. Mẹ chồng của Thị Phương lại bị bệnh nặng, cần thuốc để cứu chữa nhưng trong lúc này, không có cách nào để có được thuốc. Trước tình cảnh đó, Thị Phương đã quyết định hi sinh đôi mắt của mình để dâng lên thần linh, mong thần có thể cứu mẹ chồng khỏi bệnh tật. Hành động này cho thấy sự hi sinh vô điều kiện của Thị Phương đối với gia đình, thể hiện một tình yêu thương sâu sắc đối với mẹ chồng, mặc dù mẹ chồng là người không phải sinh thành ra mình. Điều này càng chứng tỏ phẩm chất cao đẹp và lòng nhân ái của Thị Phương.

Ngoài sự hi sinh, Thị Phương còn thể hiện sự kiên cường, dũng cảm trong việc đối mặt với thử thách. Khi Thị Phương nói với thần linh về tình trạng khổ sở của mẹ chồng, từ sự mong mỏi của người phụ nữ này, ta thấy được sự quyết tâm mạnh mẽ và niềm tin vào phép màu. Dù biết mình phải chịu đau đớn, mất mát lớn lao, nhưng Thị Phương vẫn dũng cảm đối diện và không hề lùi bước. Trong cảnh này, nhân vật Thị Phương không chỉ là người con dâu hiếu thảo mà còn là hình mẫu của sự vững vàng và kiên định.

Mối quan hệ giữa Thị Phương và thần linh cũng là một điểm đặc biệt trong đoạn trích. Thị Phương không chỉ cầu xin thần linh mà còn có những lời van xin rất chân thành, tha thiết, trong đó không thiếu sự khẩn cầu đầy cảm động. Câu nói “Mẹ chồng tôi đã bẩy mươi ba, già mong trẻ để mà trông cậy” không chỉ cho thấy lòng hiếu thảo mà còn phản ánh được tâm trạng của một người phụ nữ lo lắng cho tương lai của gia đình mình. Thị Phương không chỉ là hình mẫu của lòng hiếu thảo mà còn là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh – những người âm thầm hy sinh, gánh vác mọi khó khăn, gian khổ để bảo vệ gia đình.

Hành động dâng mắt của Thị Phương tuy đau đớn và tàn nhẫn, nhưng cũng thể hiện một lòng kiên nhẫn và sự chịu đựng tột cùng. Hình ảnh Thị Phương bị khoét mắt, cùng với những lời ca “Khoét mắt dâng thần, huyết rơi lai láng cực lòng con thay” khiến người xem không khỏi xúc động trước tình yêu thương vô bờ bến mà cô dành cho mẹ chồng. Dù phải trả giá bằng đôi mắt của mình, Thị Phương vẫn hy vọng vào sự bảo vệ của thần linh để mẹ chồng khỏi nguy hiểm, dù sự hy sinh ấy mang đậm sự bi thương và đau đớn.

Cuối cùng, qua hình ảnh Thị Phương, tác giả muốn gửi gắm thông điệp về lòng hy sinh, về tình yêu thương gia đình và lòng kiên cường của người phụ nữ trong hoàn cảnh chiến tranh. Thị Phương không chỉ là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam thời chiến mà còn là hình mẫu lý tưởng của những giá trị nhân văn, sự hi sinh vì người thân trong mọi hoàn cảnh, dù có phải đối diện với gian khổ và mất mát.