phân tích tác dụng của bptt trong câu:
Áo anh rách chỉ đã lâu
Hay mượn cô ấy về khâu cho cùng
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Dàn ý bài văn tả cách đồng lúa quê em
I. Mở bài
Giới thiệu cảnh định tả: Đó là một vùng trung du, đồi núi nối đuôi nhau, có một dải đất chạy dài dưới hai chân đồi tạo thành một cánh đồng nhỏ hẹp. Cánh đồng nhỏ hẹp ấy như một dải lụa xanh chạy dài từ quốc lộ Một đến tận các chân đồi. Ngắm cánh đồng vào buổi sáng thật là đẹp.
II. Thân bài
- Khi bình minh xuất hiện, cánh đồng được bao phủ bởi một lớp sương mù dày đặc.
- Khi mặt trời lên cao, sương tan dần, cánh đồng hiện lên, màu xanh của lúa đang thì con gái che kín cả mặt ruộng, đẹp như một tấm thảm xanh.
- Gió xuân từ trên đồi cao tràn về thung lũng tạo nên những đợt sóng lúa đuổi nhau vội vàng.
- Đây đó, xuất hiện bóng người ra thăm ruộng lúc ẩn lúc hiện, làm cho những chú chim bắt sâu lúa giật mình bay vọt lên cao.
- Dọc các chân đồi người ta xẻ ruộng thành những bậc thang để trồng bắp cải, su hào...
- Xuyên qua giữa cánh đồng là tỉnh lộ nối từ quốc lộ.
- Một đến thị trấn Kim Tân trung tâm của huyện, những chiếc xe bò đang chở phân ra đồng bón thúc cho lúa.
- Dải lụa xanh ấy quanh năm vụ nối vụ, mùa nối mùa. Hết lúa lại khoai, ngô, sắn, rau màu... Cánh đồng luôn được nhuộm mới những sắc màu của cuộc sống.
III. Kết bài
Nắng đã lên cao mà em vẫn tần ngần ngắm mãi dải lụa xanh này không biết chán. Màu xanh hôm nay, màu xanh của niềm tin hy vọng, chắc chắn sẽ báo hiệu một mùa gặt bội thu.
Tỉ lệ đúng=tỉ lệ sai(=50%)
.
(Sáng nay em thức giấc sớm hơn thường nhật bởi những âm thanh rộn rã của thôn quê đang vào mùa gặt. Cả cánh đồng vàng xuộm cũng bừng tỉnh dưới những tia nắng đầu tiên của ngày hè oi ả với cái mùi ẩm ẩm, nồng nồng, dằm dặm mà có lẽ lũ bạn nội thành của em chẳng bao giờ cảm nhận được)
2. Thân bài:
a. Tả bao quát
- Cánh đồng lúa từ xa xa như thế nào (tấm thảm khổng lồ), có điểm gì nổi bật khác với thường ngày? (rộn rã, đông vui, sắc màu, trù phú)
b. Tả chi tiết
- Từng cây lúa uốn cong trĩu hạt vàng
- Hương thơm thoang thoảng trong gió nhè nhẹ
- Mới đây cánh đồng còn phủ một màu xanh mà bây giờ đã thành màu vàng rực rỡ
c. Quang cảnh ngày mùa
- Mọi người đều tấp nập ra đồng thu hoạch lúa
- Những chiếc máy gặt ăn lúa rào rào, mọi người trò chuyện bàn tán về năng suất lúa rôm rả, vui vẻ
- Cánh đồng là thành quả lao động mệt nhọc của người nông dân
- Những chú chim sẻ tinh nghịch thỉnh thoảng lại sà xuống nhặt những hạt thóc rơi vãi
3. Kết bài:
- Nhận xét của em trước vẻ đẹp của cánh đồng lúa vào mùa gặt
- Tình cảm của em đối với cánh đồng và quê hương như thế nào?
- Em có suy nghĩ gì về công sức của người nông dân khi làm ra hạt gạo?
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Trả lời :
a) Văn bản “Mẹ tôi” của A-mi-xi.
- Đầu tiên là lời giới thiệu của nhân vật “tôi” nói rõ lí do vì sao bố viết thư cho mình.
- Phần tiếp theo là nội dung của bức thư, gồm có những phần sau:
- Người cha nhắc đến lỗi của đứa con và nỗi buồn của bố trước thái độ hỗn láo của En-ri-cô đối với mẹ.
- Người bố khéo léo nhắc lại những ngày tháng mẹ lo lắng, chăm sóc cho En-ri-cô. Nói về sự hi sinh và vai trò to lớn của người mẹ để đứa con cảm nhận sâu sắc hơn lỗi lầm của mình
- Bố giả định ngày mẹ mất và sự vô ích của nỗi hối hận muộn màng.
- Bài văn kết thúc bằng những lời nói rất kiên quyết của người cha khi căn dặn và nhắc nhở đứa con mình.
b. (1) Lão nông dân và các con
- Chủ đề của văn bản là: “Lao động là vàng”, nói về sức lao động của con người. Chủ đề đó được thể hiện qua các câu, đoạn thơ thế hiện theo một trình tự hợp lí, lôgíc, giúp cho chủ đề của văn bản được liên tục và thông suốt, thể hiện như sau:
- Hai câu đầu: Giới thiệu chủ đề của câu chuyện, giá trị của lao động
- Mười câu tiếp: Lời căn dặn của người cha.
- Phần còn lại: Con làm theo lời cha dạy nên đã có kết quả tốt đẹp
(2) Đoạn văn của nhà văn Tô Hoài
- Chủ đề xuyên thấm toàn đoạn văn là sắc vàng trù phú, đầm ấm giữa ngày mùa của làng quê trong mùa đông. Các câu trong đoạn văn được trình bày hợp lí, thống nhất, ý chủ đạo làm cho mạch văn liên tục thông suốt và hấp dẫn người đọc.
- Điều đó thế hiện rõ:
- Câu đầu giới thiệu bao khái quát sắc vàng, giữa thời gian “mùa đông” và trong không gian “làng quê”.
- 12 câu tiếp theo những biểu hiện phong phú của sắc vàng: màu trời vàng, lúa vàng, quả chín vàng, lá vàng, rơm vàng, mái nhà vàng, con gà con chó “cũng vàng mượt”, một “dòng chảy của sắc vàng” bao trùm lên cảnh vật.
- Hai câu cuối nhận xét và cảm xúc về sắc vàng đó.
- ~ HT ~
Điệp ngữ vừa để nhấn mạnh ý vừa tạo cho câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ giàu
âm điệu, giọng văn trở nên tha thiết, nhịp nhàng hoặc hào hùng mạnh mẽ.
“Nam quốc sơn hà” là bài thơ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, và được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên khẳng định chủ quyền của người Việt trên lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, với ít nhất là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích, nguồn gốc của “Nam quốc sơn hà” vẫn còn là một dấu hỏi…
Một số tài liệu cho rằng “Nam quốc sơn hà” là tác phẩm của Lý Thường Kiệt viết ra để khích lệ tinh thần quân sĩ Đại Việt trong cuộc chiến chống lại quân Tống lần hai. (Tranh qua hungsuviet.us)
“Nam quốc sơn hà” là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, chưa rõ nguồn gốc tác giả, nhưng được một số tài liệu cho là tác phẩm của Lý Thường Kiệt. Theo đó, trong cuộc chiến chống lại quân Tống lần thứ hai (1075-1077), Lý Thường Kiệt đã sai người tâm phúc đọc vang bài thơ trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát thuộc địa phận sông Như Nguyệt, Yên Phong, Bắc Ninh, để khích lệ tinh thần quân sĩ Đại Việt.
Nam quốc sơn hà
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” vốn không có tên. Tựa đề của nó xuất hiện trong “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam” tập 2 (NXB Văn học, 1976), lấy từ bốn chữ đầu trong câu thơ đầu tiên của bài thơ. Bài thơ này có nhiều dị bản khác nhau, bản chữ Hán trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép:
南國山河南帝居,
截然分定在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虚。
Phiên âm Hán Việt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản khắc gỗ và bản dập bài “Nam quốc sơn hà” trong Mộc bản triều Nguyễn tại khu trưng bày ngoài trời Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt. (Ảnh qua Wikipedia)
Trước đây, sách giáo khoa từng sử dụng bản dịch của học giả Trần Trọng Kim, có âm điệu hào hùng và dễ nhớ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Sau này, sách giáo khoa không sử dụng bản dịch trên nữa, mà sử dụng bản dịch của Lê Thước và Nam Trân (Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1, 2015):
Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Tuy nhiên sách giáo khoa lại không dùng nguyên văn bản dịch này, mà sửa đoạn đầu “Núi sông Nam Việt vua Nam ở” thành “Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Bản dịch mới này đã từng gây ra rất nhiều tranh luận vì không truyền tải được âm hưởng và khí phách của “Nam quốc sơn hà”.
“Nam quốc sơn hà” có từ bao giờ?
Trong Lĩnh Nam chích quái, phần “Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” có ghi chép rằng:
Năm Thiên Phúc nguyên niên hiệu vua Lê Đại Hành, vua Tống Thái Tổ sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem quân sang đánh Đại Cồ Việt. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau ở sông Đồ Lỗ. Vua Lê Đại Hành nằm ngủ thấy hai vị Thần hiện về báo mộng. Hai vị Thần nói với vua, đại ý như sau: “Anh em thần tên là Trương Hống, Trương Hát, là tướng của Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục). Anh em thần vì nghĩa mà chết nên được phong làm tướng trong các thần linh, thống lĩnh quỷ binh. Nay quân Tống xâm phạm nước ta, anh em thần đến yết kiến, cùng giúp vua đánh giặc để cứu dân chúng.”
Vua Lê Đại Hành tỉnh dậy liền đốt hương khấn cầu thần giúp. Đêm ấy thấy một người dẫn đoàn âm binh áo trắng và một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía Bắc sông Như Nguyệt mà lại cùng xông vào trại quân Tống mà đánh. Quân Tống kinh hoàng, lúc này bỗng có tiếng thơ ngâm lớn rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược,
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.
Dịch là:
Sông núi nước nam, vua nam ở,
Sách Trời định phận rõ non sông.
Cớ sao giặc bắc sang xâm phạm,
Bây hãy chờ gươm chém bại vong.
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau chạy tan, đại bại mà về. Vua Lê Đại Hành trở về ăn mừng, truy phong cho hai vị Thần nhân, một là Tinh Mẫn Đại Vương lập miếu thờ tại ngã ba sông Long Nhãn; hai là Khước Mẫn Đại vương, lập miếu ở ngã ba sông Nguyệt.
Trước Lý Thường Kiệt, vua Lê Đại Hành cũng nổi danh với cuộc chiến chống quân Tống lần thứ nhất cùng các chính sách cứng rắn trước Tống và Chiêm. (Ảnh qua baonga.com)
Vậy Trương Hống, Trương Hát là ai? Theo “Việt điện u linh” ghi chép lại thì anh em Trương Hống, Trương Hát là tướng của Triệu Việt Vương tức Triệu Quang Phục. Khi Triệu Việt Vương bị Lý Phật Tử cướp ngôi, dù được mời nhưng hai anh em không muốn làm quan cho Lý Phật Tử, mà về ở ẩn ở núi Phù Long. Lý Phật Tử cho người lùng bắt, hai anh uống thuộc độc, thà chết vẫn trung thành với Triệu Việt Vương.
Hai bộ sử khác nữa từ thế kỷ 16, 17 là “Việt sử diễn âm” và “Thiên nam ngữ lục” cũng cho rằng bài thơ trên có từ cuộc chiến chống quân Tống năm 981.
“Việt sử diễn âm” có ghi chép rằng:
Tháng bảy có Tống binh sang
Toàn những tướng mạnh binh cường ba muôn
Đến thành Phù Lỗ đóng vây
Quân ta quân nó đôi bên ngất trời
Chưa phân thắng phụ về ai
Ngày rằm tháng chạp vua nằm chiêm bao
Thấy đôi thần nhân bãi nào
Trương Hống Trương Hát bước vào quỳ thưa
Chúng tôi thần đế lòng xưa
Phụng thờ nhà chúa bấy chừ chẳng sai
Tiên Hoàng có sắc chỉ bày
Đòi về phong chức cho tôi tước quyền
Trung thần bất sự nhị quân
Chúng tôi tự vẫn làm thần đạo ngay
Thượng đế thấy bộ thương thay
Phong chúng tôi rày Quỉ bộ thần quân
Đại Hành thức dậy mừng thay
Giết trâu liền có minh tài tế khao
Đêm sau vua lại chiêm bao
Thấy mặc áo mới liền vào tạ ơn
Có một người đứng án tiền
Lĩnh được trăm áo vàn vàn quỷ binh
Lấy ra chưng đất Nam Bình
Đại Hành sực thức gẫm tình mới hay
Nửa đêm thấy một cơn mây
Bạo phong hắc ám gió bay vội vàng
Tống binh mất vía trở dường
Chúng quỷ đánh gãy đao thương liền cờ
Bỗng nghe mảng tiếng không hư
Thần nhân hiện xuống có thơ ngâm rằng
Thi vân:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ cảm xâm phạm
Hội kiến phong trần tận tảo trừ
Còn trong “Thiên nam ngữ lục” thì ghi chép rằng:
Bấy giờ binh mã sửa sang
Địch cùng Nhân Bảo là thằng giặc Ngô
Mười buôn binh mạnh thẳng đua
Qua miền Giang Bắc, đây là Phù Lan
Đêm thấy hai ngài đến màn
Xưng danh là Hát, xưng danh là Hồng
Giúp đời Triệu Việt có công
Thuở chẳng như lòng, ẩn nội Phù Lan…
Ơn trên Thượng đế xét thương
Quyền cho chúa tể giữ phương yên này.
Bây chừ bệ hạ đến đây
Nguyện ra giúp nước phá này giặc Ngô
Phán rằng: Tướng quan y như
Công nên thời lập miêú thờ trả ơn
Ngày sau Nhân Bảo ra quân
Trên không nghe tiếng người ngâm thơ rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Hội kiến phong trần tận khử trừ
Vậy việc cho rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ là xuất phát từ đâu? Trong bài viết “Lịch sử, sự thật và sử học” được đăng trong báo Tổ Quốc, số 401 tháng 1/1988, Giáo sư Hà Văn Tấn có viết: “Không có một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là ‘đoán’ thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt.”
Lý Thường Kiệt đã sử dụng “Nam quốc sơn hà” để khích lệ tướng sĩ, nhưng có lẽ ông không phải là tác giả của “Nam quốc sơn hà”. (Ảnh: Bìa sách Tranh truyện lịch sử Việt Nam – NXB Kim Đồng)
Trong cuốn sách “Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn”, Hội sử học Hà Nội đã cho rằng, “Nam quốc sơn hà” ra đời vào thời Tiền Lê và được Lê Hoàn sử dụng trong cuộc chiến chống lại cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Tống năm 981.
Trong Tạp chí Hán Nôm, số 1-2002, bài viết “Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà” cũng đã khẳng định về thời gian, địa điểm ra đời của bài “Nam quốc sơn hà” thông qua việc phân tích 28 nguồn tư liệu khác nhau. Theo đó, “Nam quốc sơn hà” ra đời gắn liền với cuộc chiến chống Tống năm 981 và nhân vật lịch sử Lê Đại Hành (Lê Hoàn).
Bên cạnh đó, bài viết “Nam Quốc Sơn Hà và Quốc Tộ – Hai kiệt tác văn chương chữ Hán ngang qua triều đại Lê Hoàn” đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5 năm 2005, Phó Giáo sư Bùi Duy Tân cũng đã khẳng định rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà” có từ thời Tiền Lê.
Tác giả của bài thơ
Dù các dẫn chứng lịch sử cho thấy “Nam quốc sơn hà” được ra đời vào thới kỳ đánh Tống lần thứ nhất năm 981, nhưng lại không hề có bằng chứng nào nói về tác giả của bài thơ trên.
Một số người cho rằng tác giả có thể là thiền sư Đỗ Pháp Thuận bởi lẽ thời đó vua Lê Đại Hành rất tin tưởng các thiền sư như Pháp Thuận, Định Không, Vạn Hạnh, La Quý, Khuông Việt, Đa Bảo. Rất nhiều chinh sách đối nội, cũng như kế hoạch đánh Tống, Chiêm Thành, vua Lê Đại Hành đều hỏi qua các thiền sư trước rồi mới tiến hành làm. Kết quả đều rất tốt. Vua Lê cũng muốn dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, giúp dân chúng thăng hoa đạo đức, ổn định xã hội, giang sơn bền vững và cường thịnh.
“Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.”
Chàng trai kể lể về hoàn cảnh của mình, mẹ già và còn đơn thân, nhằm mục đích gợi ý cho cô gái là mình vẫn còn “ lẻ bóng”. Vẫn tiếp tục sử dụng cách nói gián tiếp, đầy ý tý song cũng thể hiện rất rõ tấm lòng của người con trai. Câu thơ như những lời đẩy đưa, lời tự tình đầy mặn nồng. Ca dao xưa cũng có những câu thơ mang đầy tính tự tình: