Viết một đoạn văn kể về một giờ ra chơi
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Rủ nhau chơi khắp Long thành,
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,
Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giày,
Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn,
Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Than,
Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Ngang, hàng Đồng,
Hàng Muối, hàng Nón, Cầu Đông,
Hàng Hòm,hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,
Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,
Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà,
Quanh đi đến phố hàng Da,
Trải xem phường phố, thật là cũng xinh.
Phồn hoa thứ nhất Long Thành,
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ.
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền
@Nghệ Mạt
#cua
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa màn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
@Nghệ Mạt
#cua
Nhóm 1: hòa bình , hòa giải, hòa thuận
Nghĩa : tình trạng không có chiến tranh xung đột .
Nhóm 2 : hòa hợp, hòa mình, hòa tan, hòa tấu , hòa vốn
Nghĩa: cùng nhau làm 1 việc gì đó
- Đem cá về kho dưa, sau đó nhập kho.
- Mẹ em đang kho cá trong nhà kho.
Mình làm đúng ko bạn
Bố bảo tôi mang thùng thanh long về kho lạnh.
Nồi thịt kho tàu bị cháy.
@Nghệ Mạt
#cua
Tham khảo
Hiếu thảo là tình cảm tự nhiên và cũng là đạo đức của con người. Người con hiếu thảo luôn biết kính trọng và yêu thương cha mẹ của mình. Cha mẹ nuôi con không bao giờ mong được đền đáp lại công lao ấy. Nhưng nghĩa vụ của mỗi người con là phụng dưỡng khi cha mẹ tuổi già sức yếu. Điều quan trọng nhất là chúng ta phải phấn đấu học tập và rèn luyện để trở thành con ngoan, trò giỏi, trở thành những công dân tốt, đem lại niềm vui, niềm tự hào cho ba mẹ. Trong cuộc sống có rất nhiều tấm gương hiếu thảo đáng được khen ngợi, tiêu biểu là những câu chuyện trong “Nhị thập tứ hiếu”. Bên cạnh đó vẫn có những kẻ bất hiếu, không vâng lời cha mẹ, ngược đãi cha mẹ mình, luôn làm cha mẹ đau lòng. Đó là những người đáng bị phê phán trong xã hội. Tóm lại, bổn phận làm con phải biết giữ tròn chữ hiếu với đấng sinh thành. Ngày nay, không chỉ hiếu thảo với cha mẹ, chữ hiếu còn được mở rộng ý nghĩa như trong lời Bác Hồ dạy: “Trung với nước, hiếu với dân”.
HT
Hiếu thảo là một trong những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Lòng hiếu thảo là tấm lòng biết ơn, kính trọng sâu sắc của bậc con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Lòng hiếu thảo được biểu hiện bằng những tình cảm, hành động cụ thể trong cuộc sống hàng ngày. Đó có thể là sự lễ phép, kính trọng, cũng có thể là tình yêu thương, cảm thông sâu sắc, là sự cố gắng học tập và làm việc để đền đáp công ơn sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ của cha mẹ, ông bà. Trong cuộc sống, nếu chúng ta biết hiếu thảo, biết yêu thương, trân trọng những người thân trong gia đình thì không chỉ tạo ra niềm vui, niềm hạnh phúc mà còn góp phần làm cho xã hội văn minh hơn. Thật vậy! Đấng sinh thành là những người đã đưa chúng ta đến với cuộc đời, nuôi dưỡng, bảo bọc và che chở cho ta bằng tất cả tình yêu thương. Vì vậy, hiếu thảo không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của mỗi người con, người cháu trong gia đình. Chúng ta cần ý thức được điều này, sống và làm việc có trách nhiệm, luôn yêu thương, kính trọng bề trên, không ngừng cố gắng để đền đáp công ơn, tình cảm to lớn của cha mẹ. Bên cạnh đó, cần lên án, phê phán những hành động bất hiếu, vô cảm, thậm chí là đánh đập người thân của một bộ phận người trong xã hội hiện nay. Tóm lại, lòng hiếu thảo từ xưa đến nay vẫn luôn là đạo lý tốt đẹp được truyền từ đời này sang đời khác, chúng ta cần biết giữ gìn và phát huy thật tốt truyền thống đạo lý đó.
Hơi dài bn cố viết nhé
Câu: Trong câu sau có bao nhiêu từ đơn và từ phức: “Chẳng bao lâu, người chồng mất”. *
A. 2 từ đơn – 2 từ phức
B. 1 từ đơn – 3 từ phức
C. 3 từ đơn – 2 từ phức
D. 2 từ đơn – 3 từ phức
* sai xin lỗi ạ
Câu: Trong đoạn văn sau có bao nhiêu trạng ngữ? Giặc đã đến chân núi trâu. Thế nước rất nguy,người người hoảng hốt. Vừa lúc đó sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến.
A. 4
B. 3
C. 1
D. 2
D . 2
Có 2 ý nghĩa:
+ Ko cần vũ khí quá tốt mà vũ khí thô sơ cũng có thể đánh giặc
+ Cho thấy sự đoàn kết của nhân dân ta
ht
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. "Việt Bắc" là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ "tống biệt" của Tố Hữu. Mặc dù là đề tài cũ, nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi "Việt Bắc" ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân li:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả mở đầu bằng một câu hỏi mang âm hưởng ca dao, tình yêu: "Mình về mình có nhớ ta". "Mình về" là hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. "Về" gợi đến sự chia li, đó là sự chia li của người ra đi và người ở lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì "mình" đứng ở đầu câu, còn "ta" đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa "ta" và "mình". Nỗi niềm gợi lên qua câu hỏi ấy của người ở lại là nỗi nhớ, tình cảm của người ở lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ là một từ "nhớ", nó làm cho "mình" và "ta" dường như được xích lại gần nhau hơn. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là: "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều, nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một thời kháng chiến. "Mười lăm năm ấy" gợi đến một quãng thời gian khó khăn, một thời đau thương, mất mát. Tuy vậy, dường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng lại trong câu thơ chỉ còn là tình cảm "thiết tha mặn nồng". Đó chính là sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong "mười lăm năm ấy" giữa "ta" và "mình". Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.
Đến câu thơ thứ ba cũng là một câu hỏi. Câu hỏi: "Mình về mình có nhớ không" cũng có sự lặp lại gần giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa "ta - mình" và nỗi nhớ dường như không còn chỉ hướng tới "ta", mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian "núi rừng" và "sông nguồn". Câu hỏi gợi về không gian có "núi", có "nguồn" ở núi rừng Việt Bắc. Đây chính là không gian quen thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại không còn là không gian vô hồn, vô cảm mà là không gian chứa đầy kỉ niệm, nó góp phần tạo nên tình cảm cho người ra đi.
Ở trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành động "nhìn" và "nhớ". Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Sự đan xen giữa các hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính là mong muốn của người ở lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người ở lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu đạt trực tiếp qua động từ "nhớ" xuất hiện nhiều lần ở khổ thơ, càng về cuối thì từ "nhớ" xuất hiện càng nhiều đã thể hiện cường độ nhớ ngày một tăng và nó đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó là âm hưởng nhớ thương, ân tình tha thiết.
Bốn câu thơ đầu chỉ với hai câu hỏi, nhưng chủ yếu là để giãi bày tình cảm và để mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó có sự gắn bó khăng khít trong một thời kháng chiến và một vùng kháng chiến. Để rồi từ đó, người ra đi đáp lại người ở lại bằng bốn câu thơ:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người ở lại đặt ra câu hỏi nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi đó mà thay vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay. Ấn tượng ban đầu đã tác động đến người ra đi: "Tiếng ai tha thiết bên cồn". "Ai" là đại từ không xác định. "Ai" có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, quen thuộc với người ra đi - một con người cụ thể xuất hiện "bên cồn" trong buổi chia li. "Ai" có thể là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra đi. Dù hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động đến người ra đi là âm thanh tiếng nói tha thiết - đó chính là âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. Và âm thanh đó dường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình và âm thanh đó gọi về mối tình keo sơn gắn bó thân thiết giữa người ở lại với người ra đi. Chính âm thanh đó đã khiến cho người ra đi "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi".
Câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài. "Trong dạ" thì "bâng khuâng" còn hành động bên ngoài biểu hiện sự "bồn chồn" thấp thỏm của người ra đi, nhưng lại có sự tương đồng trong cảm xúc và hành động. Chính vì cảm xúc "bâng khuâng" thì mới có hành động "bồn chồn" đó được.
Trong cảm nhận của người ra đi, một hình ảnh bình dị, quen thuộc thường xuất hiện trong cuộc sống đời thường đó là hình ảnh "áo chàm". Hơn thế nữa chiếc "áo chàm" gợi đến sắc màu bền bỉ khó phai. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ người dân Việt Bắc và bởi vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" là nói về cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm" dường như tác giả muốn nói đến tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi chính là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...".
Trước tiên là hành động "cầm tay nhau" là hành động quen thuộc và rất đẹp của những ai khi chia li, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì thế không nói lên lời. Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.
Tham khảo:
Cảm nhận của em về bài Việt Bắc – Nhà thơ Tố Hữu được coi như một lá cờ tiên phong của phong trào thơ cách mạng nước ta với những tác phẩm trường tồn với thời gian như "Từ ấy" "Khi con tu hú" hay "Việt Bắc"
Những tác phẩm của Tố Hữu viết về đề tài yêu nước, cách mạng mang màu sắc chính trị nhưng chưa bao giờ khô khan thiếu sức truyền cảm. Mà ngược lại trong tác phẩm của ông nhiều nghệ thuật đặc sắc khiến cho mọi người đều cảm nhận được cái hay cái đẹp của nó.
Bài thơ "Việt Bắc" được tác giả Tố Hữu trong hoàn cảnh sau mười lăm năm sống ở Việt Bắc khi nước ta chiến thắng thực dân Pháp những chiến sĩ cách mạng rời núi rừng về lại với thủ đô Hà Nội. Cuộc chia tay đầy bịn rịn giữa kẻ ở người đi khiến người đọc vô cùng xúc động, nghẹn ngào về tình cảm đồng bào, đồng chí thiêng liêng như ruột thịt. Đặc biệt trong tác phẩm "Việt Bắc" tác giả Tố Hữu đã khắc họa lên bức tranh tứ bình về phong cảnh bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông của núi rừng Việt Bắc vô cùng sinh động say đắm lòng người.
Xuyên suốt tác phẩm chính là những tâm tư tình cảm tha thiết, lắng động của tác giả Tố Hữu dành cho những người đồng bào dân tộc, nơi ông đóng quan tham gia kháng chiến. Nơi chứa những kỷ niệm gian khổ, buồn vui về những ngày khốn khó.
Bài thơ "Việt Bắc" nói lên hình ảnh bình dị, gần gũi của giữa những chiến sĩ cách mạng với người đồng bào Tây Bắc. Những người dân tộc hiền lành, chất phác nhưng một lòng yêu nước, đi theo cách mạng thủy chung son sắc.
Trong khổ thơ đầu tiên tác giả đã thể hiện buổi chia ly nặng tình, nặng nghĩa giữa "Ta" và " Mình" thể hiện sự đối đáp như những người thân, người thương trong một gia đình, thể hiện sự gắn bó thân thiết như máu mủ ruột già.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Tác giả Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ vô cùng tinh tế thể hiện sự khéo léo kín đáo của mình trong việc diễn tả mối quan hệ quân và dân nhẹ nhàng gắn bó, như người thân trong gia đình.
Câu thơ thể hiện nỗi lòng nặng trĩu của người đi cũng như những người ở lại. Mười lăm năm gắn bó đâu phải là quãng thời gian ngắn ngủi. Mà nó là một quãng thời gian suốt đời không thể nào quên. Những chiến sĩ cách mạng cùng với những người dân đồng bào Tây Bắc đã cùng nhau vượt qua những khó khăn hoạn nạn, cùng chia ngọt sẻ bùi, đã từng một thời "Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng"
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Sang tới những câu thơ này người đọc như sững sờ ngơ ngẩn trước vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc trong khung cảnh khi mùa đông đến. Mỗi khi nhắc tới mùa đông con người thường cảm thấy sự lạnh lẽo, buồn bã. Nhưng trong những câu thơ của Tố Hữu thì mùa đông ở Việt Bắc không hề buồn mà còn ấm áp, thể hiện một không khí tươi vui rực rỡ khi những bông hoa chuối rừng nở hoa.
Màu hoa chuối đỏ làm cho khu rừng như bừng sáng, cùng với những ánh nắng làm cho màu sắc của khu rừng càng thêm bừng sáng trong mùa đông. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật chấm phá làm người đọc cảm thấy ấm áp hơn khi mùa đông trở nên ấm áp.
Những tia nắng hiếm hoi làm cho không khí mùa đông trở nên bừng sáng, những tia nắng làm cho bức tranh mùa đông trở nên ấp áp thơ mộng trữ tình hơn. Màu đỏ của hoa chuối hòa lẫn với ánh nắng tạo nên màu sắc hy vọng ngập tràn sức sống của thiên nhiên con người tràn đầy hy vọng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Trong những câu thơ tiếp theo bức tranh khung cảnh mùa xuân nơi núi rừng Tây Bắc hiện lên thật dịu dàng, êm ái, tạo nên sức sống vô cùng mãnh liệt, gợi lên một bức tranh mùa xuân vô cùng đặc sắc. Hoa mơ chính là loài hoa gắn liền với núi rừng Tây Bắc cứ mỗi dịp Tết đến xuân về thì những cánh rừng hoa mơ bạt ngàn lại nở trắng rừng, làm nên bức tranh mùa xuân Tây Bắc.
Mỗi bức tranh đều gắn liền với hình ảnh con người vô cùng đặc sắc, diễn tả một người con gái dịu dàng làm công việc vô cùng tỉ mỉ. Những con người hăng say với công việc của mình, yêu lao động và cần mẫn chăm chỉ tạo nên bức tranh xuân và con người vô cùng đặc sắc.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve kêu làm cho khu rừng khi mùa hè về trở nên sinh động hơn. Màu vàng đặc trưng của rừng phách làm cho mùa hè trở nên vô cùng ấn tượng, một bức tranh vô cùng tươi đẹp trên xứ sở cao nguyên. Tiếng ve râm ran như phá vỡ sự tĩnh lặng, bình yên của núi rừng làm cho không khí mùa hè trở nên náo nhiệt hơn bao giờ hết.
Tác giả Tố Hữu sử dụng động từ "đổ" để nhấn mạnh bức tranh mùa hè với những chuyển biến quyết liệt, quyến rũ về màu sắc. Bức tranh mùa hè chợt bừng tỉnh với những sức sống mới vô cùng rực rỡ.
Ở trong bức tranh thiên nhiên mùa hè này người đọc cảm nhận bóng dáng con người trong đó. Người con gái hái măng một mình nhưng không gợi lên vẻ cô đơn, mà vẫn thể hiện một cuộc sống tràn đầy sức sống.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Trong những câu thơ này cảnh mùa thu núi rừng Tây Bắc với ánh trăng dịu dàng, mát lành thể hiện một bức tranh thiên nhiên vô cùng ưu đãi cho vùng đất tuyệt vời này. Ánh trăng trong bức tranh mùa thu là ánh trăng thể hiện tri kỷ thể hiện tình bạn gắn bó thân thiết của con người và thiên nhiên trong những năm tháng khó khăn gian khổ gắn bó thân thiết.
Hình ảnh ánh trăng mang tới cho con người vẻ đẹp vô cùng rạng rỡ trong mùa thu ở núi rừng Việt Bắc. Tác giả Tố Hữu nhìn trăng nhớ tới con người, nhớ tới tình nghĩa gắn bó giữa những chiến sĩ cách mạng và người dân đồng bào.
Bài thơ " Việt Bắc" của Tố Hữu thể hiện bức tranh thiên nhiên Việt Bắc vô cùng đặc sắc, tinh tế tràn đầy sức sống. Thể hiện tình cảm quân dân vô cùng gắn bó vượt qua những năm tháng khó khăn thử thách. Tác giả Tố Hữu đã tinh tế thể hiện sự khéo léo những tình cảm gắn bó sâu sắc của những người chiến sĩ với mảnh đất thân thương gắn bó như quê hương thứ hai của mình
mình chịu nha