K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

14 tháng 2 2018

đây là hỏi đáp về tiếng việt mà bn,đâu phải là môn lịch sử đâu

27 tháng 3 2018

Câu 1: 

Tổ tiên ta vẫn giữ đc tiếng nói và các phong tục, nếp sống với những đặc trưng riêng của dân tôc: Xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu, làm bánh trưng bánh giầy,...

Câu 2:

- Về Bà Triệu: 

Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ múc nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng.

Hay

Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh
Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng.

Ai về Hậu Lộc, Phú Điền,
Nơi đây Bà Triệu trận tiền xung phong

- Về Mai Thúc Loan:

Nhớ khi nội thuộc Đường triều
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai.
Sâu quả vải vì ai vạch lá
Ngựa hồng trần kể đã héo hon.
…..
Đường đi cống vải từ đây dứt
Dân nước đời đời hưởng lộc chung.

Hay câu ca:

Sa nam trên chợ dưới đò
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dựng binh.

Câu 3: Tùy vào từng địa phương nhé

Câu 4: ...

14 tháng 2 2018

hay quá!

14 tháng 2 2018

quá hay!

14 tháng 2 2018

giải ra mik cho nha

14 tháng 2 2018

ctrl+shìt+n

14 tháng 2 2018

Very easy 

Ở bên phải trang google có 4 cái ô đấy . 

vào cái biểu tượng bên trái dấu " - " 

rồi vào truy cập ẩn danh 

Hiểu ko ?

14 tháng 2 2018

Trong cuộc sống thường hay xảy ra những điều không như ý ta muốn. Trước những thử thách của cuộc đời, không ít người đã gục ngã hay phó mặc số mệnh, tuy nhiên, cũng có người biết vượt lên hoàn cảnh, sống lạc quan và giàu niềm tin, ý chí. Robinson- nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết Robinson Crusoe là một ví dụ điển hình cho tinh thần lạc quan và ý chí, nghị lực của một con người phải sống cô độc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.

Bằng giọng dí dỏm, hài hước, tự giễu, mở đầu đoạn trích “Robinson ngoài đảo hoang”, nhân vật Robinson tự đưa ra lời cảm nhận chung về chân dung của chính mình. Anh hình dung đang đi dạo trên quê hương, đất nước mình. Hình dáng, bộ dạng kì lạ và tức cười của anh chắc chắn sẽ làm cho người đối diện phải ngạc nhiên đến mức sợ hãi: “Giá có người nào trông thấy tôi, nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười!” Lời tự thuật ấy đã phần nào hé lộ cuộc sống thiếu thốn và khắc nghiệt nơi đảo hoang mà anh đã trải qua 10 năm qua.

Tiếp theo, chúng ta hãy cùng hình dung về trang phục và trang bị của một vị chúa đảo. Cái mũ to, cao lêu nghêu để che nắng, che không cho mưa hắt vào cổ. Cái áo làm bằng da dê, vạt áo dài đến bắp đùi. Quần được làm bằng da của một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân. Tất và giày đều không có nên anh tự tạo cho mình một đồ dùng giống như ủng. Những trang phục kì lạ, tiện dụng được tác giả miêu tả theo trình tự từ trên xuống dưới. Còn về trang bị? Đó là một cái thắt lưng rộng bản bằng da dê dùng để đeo cưa, rìu. Hai cái túi làm bằng da dê đựng thuốc súng, đạn ghém. Gùi được đeo sau lưng, khoác súng bên vai, dù trên đầu. Bằng việc kể đan xen với miêu tả, những vật dụng linh tinh hiện lên thật kì dị. Chúng chính là kết quả của quá trình lao động và sáng tao, của nghị lực và tinh thần vượt lên hoàn cảnh sống.

Một mình sống trên đảo hoang hơn chục năm, diện mạo của Robinson ít nhiều cũng sẽ có sự thay đổi và càng ngày càng ít giống người văn minh hơn. Vẫn là cái giọng điệu pha chút hài hước: “Mặt tôi rám nắng, đen sạm lại, tuy chưa đến nỗi như cột nhà cháy; râu tuy thỉnh thoảng có cạo, nhưng vẫn đâm ra như chổi xể. Trên mép, theo ý thích riêng, tôi lại để một cặp ria theo kiểu người Thổ-nhĩ-kỳ vừa dài vừa rậm khác thường, tô đậm thêm nét cổ quái vào diện mạo của tôi”. Dáng vẻ của Robinson hẳn rất kì quái, gần như người rừng. Cuộc sống tuy vô cùng khó khăn, vất vả và nguy hiểm nhưng ta không hề thấy sự bi quan, tuyệt vọng hay chán nản ở Robinson. Bằng trí thông minh, sự khéo léo, đầu óc thực tế, tính cách kiên cường, anh đã dần vượt qua hoàn cảnh bất hạnh và làm chủ được cuộc sống. Tâm hồn anh ngời sáng lên vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, vui vẻ, ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống, thiên nhiên cũng không thể khuất phục.

Bằng việc sáng tạo trong lựa chọn ngôi kể thứ nhất và nhân vật kể chuyện, cách kể chuyện tự nhiên, hài hước, hấp dẫn, đoạn trích “Robinson ngoài đảo hoang” chính là bức chân dung về nhân vật Robinson khi anh gặp biến cố và phải sống cô đơn một mình trên đảo hoang hơn 10 năm. Từ đó, tác giả ca ngợi sức mạnh, đặc biệt là tinh thần lạc quan, ý chí, nghị lực của con người trong những hoàn cảnh đặc biệt.

Ông cha ta đã từng nói: Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Có ở trong những hoàn cảnh gian nan, khó khăn, đặc biệt, chúng ta mới biết ý chí, nghị lực của mình mạnh mẽ tới đâu. Chỉ cần có ý chí, nghị lực, ta sẽ vượt qua được mọi thử thách của cuộc sống, tôi luyện bản thân trở nên mạnh mẽ, kiên cường như nhân vật Robinson đã làm.

14 tháng 2 2018

Trong cuộc sống thường hay xảy ra những điều không như ý ta muốn. Trước những thử thách của cuộc đời, không ít người đã gục ngã hay phó mặc số mệnh, tuy nhiên, cũng có người biết vượt lên hoàn cảnh, sống lạc quan và giàu niềm tin, ý chí. Robinson- nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết Robinson Crusoe là một ví dụ điển hình cho tinh thần lạc quan và ý chí, nghị lực của một con người phải sống cô độc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.

Bằng giọng dí dỏm, hài hước, tự giễu, mở đầu đoạn trích “Robinson ngoài đảo hoang”, nhân vật Robinson tự đưa ra lời cảm nhận chung về chân dung của chính mình. Anh hình dung đang đi dạo trên quê hương, đất nước mình. Hình dáng, bộ dạng kì lạ và tức cười của anh chắc chắn sẽ làm cho người đối diện phải ngạc nhiên đến mức sợ hãi: “Giá có người nào trông thấy tôi, nếu không kinh sợ thì cũng bò ra mà cười!” Lời tự thuật ấy đã phần nào hé lộ cuộc sống thiếu thốn và khắc nghiệt nơi đảo hoang mà anh đã trải qua 10 năm qua.

Tiếp theo, chúng ta hãy cùng hình dung về trang phục và trang bị của một vị chúa đảo. Cái mũ to, cao lêu nghêu để che nắng, che không cho mưa hắt vào cổ. Cái áo làm bằng da dê, vạt áo dài đến bắp đùi. Quần được làm bằng da của một con dê đực già, lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân. Tất và giày đều không có nên anh tự tạo cho mình một đồ dùng giống như ủng. Những trang phục kì lạ, tiện dụng được tác giả miêu tả theo trình tự từ trên xuống dưới. Còn về trang bị? Đó là một cái thắt lưng rộng bản bằng da dê dùng để đeo cưa, rìu. Hai cái túi làm bằng da dê đựng thuốc súng, đạn ghém. Gùi được đeo sau lưng, khoác súng bên vai, dù trên đầu. Bằng việc kể đan xen với miêu tả, những vật dụng linh tinh hiện lên thật kì dị. Chúng chính là kết quả của quá trình lao động và sáng tao, của nghị lực và tinh thần vượt lên hoàn cảnh sống.

Một mình sống trên đảo hoang hơn chục năm, diện mạo của Robinson ít nhiều cũng sẽ có sự thay đổi và càng ngày càng ít giống người văn minh hơn. Vẫn là cái giọng điệu pha chút hài hước: “Mặt tôi rám nắng, đen sạm lại, tuy chưa đến nỗi như cột nhà cháy; râu tuy thỉnh thoảng có cạo, nhưng vẫn đâm ra như chổi xể. Trên mép, theo ý thích riêng, tôi lại để một cặp ria theo kiểu người Thổ-nhĩ-kỳ vừa dài vừa rậm khác thường, tô đậm thêm nét cổ quái vào diện mạo của tôi”. Dáng vẻ của Robinson hẳn rất kì quái, gần như người rừng. Cuộc sống tuy vô cùng khó khăn, vất vả và nguy hiểm nhưng ta không hề thấy sự bi quan, tuyệt vọng hay chán nản ở Robinson. Bằng trí thông minh, sự khéo léo, đầu óc thực tế, tính cách kiên cường, anh đã dần vượt qua hoàn cảnh bất hạnh và làm chủ được cuộc sống. Tâm hồn anh ngời sáng lên vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, vui vẻ, ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống, thiên nhiên cũng không thể khuất phục.

Bằng việc sáng tạo trong lựa chọn ngôi kể thứ nhất và nhân vật kể chuyện, cách kể chuyện tự nhiên, hài hước, hấp dẫn, đoạn trích “Robinson ngoài đảo hoang” chính là bức chân dung về nhân vật Robinson khi anh gặp biến cố và phải sống cô đơn một mình trên đảo hoang hơn 10 năm. Từ đó, tác giả ca ngợi sức mạnh, đặc biệt là tinh thần lạc quan, ý chí, nghị lực của con người trong những hoàn cảnh đặc biệt.

Ông cha ta đã từng nói: Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Có ở trong những hoàn cảnh gian nan, khó khăn, đặc biệt, chúng ta mới biết ý chí, nghị lực của mình mạnh mẽ tới đâu. Chỉ cần có ý chí, nghị lực, ta sẽ vượt qua được mọi thử thách của cuộc sống, tôi luyện bản thân trở nên mạnh mẽ, kiên cường như nhân vật Robinson đã làm.

Năm nào cũng vậy, cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, cũng như bao gia đình Việt Nam khác, gia đình tôi lại gói những chiếc bánh chưng xanh để cúng tổ tiên. Đó là một phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc ta.

Tôi nhớ nhất cảm giác đêm 29 Tết được ngồi quay quần bên nồi bánh chưng trên bếp lửa hồng cùng gia đình rồi lặng yên nghe mẹ đọc sự tích Bánh chưng, bánh giầy. Giọng của mẹ thật ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh chàng Lang Liêu hiền lành, chăm chỉ cứ hiện lên rõ nét trong trí tưởng tượng của tôi. Tôi cảm thấy lòng mình thật nhẹ nhàng trong trẻo. Đôi chân tôi như bước theo câu chuyện về chiếc bánh chưng mẹ vừa kể.

Tôi lang thang trên những cánh đồng ngạt ngào hương lúa. Phía xa xa là những triền khoai lang xanh rờn. Bỗng tôi thấy một anh nông dân đang cặm cụi nhặt từng ngọn cỏ trên ruộng lúa. Tôi thấy gương mặt anh có nét gì đó rất quen thuộc. Đúng rồi, đó chính là hoàng tử Lang Liêu trong sự tích Bách chưng, bánh giầy. Tôi bước lại gần và hỏi:

- Em chào anh Lang Liêu! Sao anh lại ở đây ạ?

Anh nông dân dừng tay làm, nhìn tôi mỉm cười và nói:

- Chào em gái! Lẽ ra anh phải em điều đó chứ!

Tôi chợt hiểu và giới thiệu:

- Dạ, em là Quỳnh Nga. Năm nay, em học lớp 5 trường TH Hùng Vương. Ngày mai, lớp em có tiết văn học về Bánh chưng, bánh giầy. Thế mà hôm nay em lại được gặp anh, thật là vui quá!

Nghe nhắc đến chuyện bánh chưng, bánh giầy, anh nông dân có vể trầm ngâm. Còn tôi thì rất háo hức vì đây là một cơ hội hiếm có để được nghe chính hoàng tử Lang Liêu kể chuyện cho nghe. Đoán được suy nghĩ của tôi, hoàng tử Lang Liêu mỉm cười, nói:

- Em có muốn anh kể cho em nghe về cuộc thi tài kén vua của phụ vương anh không?

Tôi thích thú:

- Có ạ! Anh kể cho em nghe đi!

Lang Liêu bắt đầu kể, giọng anh như trầm xuống:

- Anh sinh ra trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Mẹ anh không được vua yêu chiều như những vương phi khác nên khi mẹ sinh ra anh, chỉ có hai mẹ con quấn quýt bên nhau. Chẳng bao lâu, bà mất sớm, để lại anh một mình côi cút. Từ đó, anh chăm chỉ với ruộng đồng, khoai lúa.  Ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc, anh đã đến tuổi trưởng thành. Ngày ngày, anh vui với công việc đồng áng của mình, chẳng dám mong đến công danh, bổng lộc của triều đình. Một hôm, khi đang lúi húi vun mấy khóm khoai trước nhà, bỗng anh nhận được lệnh vua cha gọi vào chầu.

- Thế anh có lo lắng không? – Tôi vội hỏi.

Lang Liêu chậm rãi trả lời:

- Anh cũng cảm thấy hơi lo lắng vì lâu rồi không vào triều, biết đâu phụ vương giận hoặc đau yếu. Bới vậy, sau khi nhận được lệnh, anh vội vã thay quần áo vào chầu phụ vương. Trên đường đến đó, anh đã nghe nói vua cha thấy mình già yếu nên muốn tìm một người nối ngôi, chỉ cần người đó có tài có đức chứ không nhất thiết là con trưởng hay con thứ. Khi anh đến nơi, các anh trai của anh đã ở đó. Thấy các con đã về tựu đông đủ, vua cha nói: “Tới ngày lễ Tiên Vương, ai làm vừa lòng ta ta sẽ truyền ngôi cho người ấy ngôi báu để tiếp tục trị vì đất nước”.

Nghe đến đây, tôi lại buột miệng hỏi:

- Chắc anh lo lắng lắm khi nhận được tin này bởi anh rất nghèo, đâu có những thứ quý giá dâng lên vua cha!

Lang Liêu nhìn tôi gật đầu và kể tiếp:

- Sau khi nghe lời vua cha phán truyền, các anh trai của anh rất vui mừng vì họ có biết bao ngọc ngà, châu báu. Còn anh nhìn khắp nhà chỉ thấy toàn lúa, sắn, khoai, không có thứ gì là giá trị cả, biết lấy gì để dâng lên Tiên Vương. Thực ra, anh cũng không có ý tranh giành ngôi báu nhưng anh cũng muốn làm đẹp lòng phụ vương. Suốt mấy ngày sau đó, anh mất ăn mất ngủ vì nghĩ đến món quà sẽ dâng lên phụ vương. Lòng anh ngổn ngang trăm mối. Nếu đi mua đồ quý như các anh của mình thì anh không có tiền. Còn nếu dâng lên khoai và sắn thì chắc chắn phụ vương sẽ buồn lòng vì những thứ tầm thường đó. Một đêm, sau một hồi trằn trọc suy nghĩ, anh ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, anh thấy một vị thần hiện lên mách rằng: “Hãy lấy chính những sản phẩm mà con làm ra để dân lên Tiên Vương”. Anh chợt tỉnh giấc và cảm thấy rất sung sướng. Ngay sáng hôm đó, anh bắt tay vào làm bánh như lời Thần báo mộng. Anh tìm thứ gạo nếp ngon nhất đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong xanh gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ. Anh nghĩ cần phải làm thêm một loại bánh nữa. Vậy là anh đổ gạo rồi đem giã nhuyễn và nặn thành hình tròn. Bánh hình tròn biểu tượng cho trời, bánh hình vuông biểu tượng cho đất. Đến ngày lễ Tiên Vương, anh đem hai loại bánh đó vào cung. Nhìn chồng bánh bằng lúa gạo của anh, không ít người xem thường khi đặt cạnh những món sơn hào hải vị, nem công chả phượng của các lang. Nhưng anh không thấy ngại ngùng gì vì anh chỉ mong đẹp lòng tổ tiên bằng chính tấm lòng thành của mình. Tất cả các lễ vật được bày ra trước mặt đức vua, ai ai cũng hồi hộp hi vọng vua cha chọn lễ vật của mình. Vua cha lần lượt tới trước lễ vật của các lang rồi xem xét hoặc nhấm nháp từng món ăn nhưng gương mặt Người vẫn không biểu thị một thái độ gì. Có lẽ Người vẫn chưa ưng ý một lễ vật nào cả. Nhiều người đã tỏ ra thất vọng khi thấy vua cha lướt món ăn của mình rất nhanh. Hai loại bánh của anh được đặt ở sau cùng. Khi đứng bên mâm bánh của anh, vua cha dừng hẳn, chăm chú nhìn. Có lẽ Người thấy ngạc nhiên vì mâm bánh của anh khác hẳn các món sơn hào, hải vị khác. Sau khi nhìn ngắm, Người liền cầm từng chiếc bánh lên tỏ vẻ thích thú, bỗng Người cất tiếng hỏi: “chiếc bánh này làm bằng gì hả Lang Liêu?” Anh bẩm: “Thưa phụ vương! Hai loại bánh này được làm từ gạo. Đây là những sản phẩm do chính tay con làm nên đấy ạ!”. Ánh mắt cha nhìn anh trìu mến. Anh cảm thấy thật hạnh phúc. Sau đó, anh giới thiệu cách làm cũng như ý nghĩa của từng loại bánh. Vua cha vô cùng kinh ngạc và vui vẻ. Người liền lệnh cho cắt bánh mời tất mọi người cùng ăn. Ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua cha nói: “Trong tất cả các món lễ vật dâng lên Tiên Vương hôm nay, ta ưng ý nhất là món bánh của Lang Liêu. Nó vừa mang ý nghĩa là biểu tượng của đất trời, của sự no đủ, đoàn kết, vừa thể hiện được tấm lòng hiếu thảo của một người con. Do vậy, ta quyết định chọn Lang Liêu là người thừa kế ngôi vị”.

Tôi thích thú nghe câu chuyện Lang Liêu vừa kể và cảm thấy vô cùng khâm phục, kính trọng anh. Nhưng tôi ngạc ngiên vì thấy Lang Liêu chẳng khác gì một anh nông dân cả. Đọc được suy nghĩ của tôi, Lang Liêu cười lớn và nói:

- Hôm nay ta vi hành về thôn quê để dạy dân cách cấy cày, chăm sóc lúa khoai.

Nói xong, Lang Liêu liền tạm biệt tôi để đi ra phía ngoài xa kia, ở đó, bà con nông dân đang đợi anh. Vừa nói, anh vừa bước đi rất nhanh. Tôi liền gọi với theo:

- Anh Lang Liêu! Anh Lang Liêu! Cho em đi cùng với!

Vừa lúc đó, tôi tỉnh giấc và thấy mẹ đang ngồi bên cạnh lay tôi dậy chuẩn bị đón giao thừa. Mẹ hỏi:

- Con vừa ngủ mơ đúng không? Mẹ thấy con ú ớ gọi ai đó.

Tôi dụi mắt tỉnh giấc. Tôi đã có một giấc mơ thật đẹp. Thấy tôi vẫn mủm mỉm cười, mẹ liền bảo:

- Con chuẩn bị đón giao thừa và khai bút đầu năm cho may mắn nhé!

Tôi tới trước bàn thờ tổ tiên và chắp tay lạy thật thành kính. Mùi nhanh trầm thoang thoảng quyên với mùi bánh chưng xanh thơm phức làm thấy thật thiêng liêng và ấm áp làm sao. Tôi trở lại bàn học nắn nót viết những nét chữ khai bút đầu xuân bằng giấc mơ tuyệt đẹp này! Dưới nhà, chị tôi đang ngân nga bài thơ:

Gạo nếp ngon đồng bằng

Lá dong tươi trên núi

Đậu xanh nơi bãi sông

Tiêu thơm vùng đảo nổi

Bao miền quê tụ hội

Trong khoanh bánh mịn màng

Năm cũ và năm mới

Buộc nhau bằng sợ gang

Đã qua mấy nghìn năm

Bánh vẫn rền vẫn dẻo

Lòng người con chí hiếu

Bay thơm cả đất trời ….

14 tháng 2 2018

Ngày 23 tháng Chạp, sau lễ cúng “ông Công, ông Táo” thì công việc dọn dẹp, trang hoàng bàn thờ được thực hiện. Vì quan niệm rằng đây là thời điểm “thần linh đi vắng”, nên gia chủ tranh thủ sửa sang nơi thờ tự đón Tết, để làm sao cho đến đêm 30 tết, khi các vị thần linh trở về thì mọi việc đã hoàn tất đẹp đẽ.

Công việc chủ yếu là dọn dẹp, lau chùi, hóa chân nhang (đốt các chân nhang cũ đi cho đỡ đầy bát hương), treo đèn, kết hoa, bày biện đồ lễ. Các đồ thờ tự lúc này có thể hạ xuống để lau chùi, đánh bóng. Sau khi hoàn tất, người ta nấu nước thơm (thường là ngũ vị hương) để lau lại một lần nữa gọi là “tẩy uế”. Rồi tất cả được sắp đặt lên bàn thờ theo thứ tự, tùy quan niệm từng vùng.

Bài trí bàn thờ gia tiên ngày Tết thế nào cho chuẩn? - Ảnh 1

Ảnh: Vũ Long

Một số điều cần lưu ý trong việc bài trí, sắp xếp bàn thờ

Trong cách bày biện bàn thờ, người ta thường bố trí vị trí cao nhất, chính giữa phía trong cùng là nơi để Bài vị - là tấm bia gỗ ghi tên, thụy hiệu của các đối tượng được thờ cúng, nếu cầu kỳ thì bài vị này có thể được đặt trong một ngai thờ, hoặc một khám thờ.

Do hầu hết các gia đình đều chỉ có một nơi thờ tự, do đó sẽ “phối thờ” cả gia tiên nhiều đời và cả thần linh, cho nên thường thì vị trí này là bài vị chung cho tất cả. Hai bên Bài vị chung, thì bố trí hoặc bài vị, hoặc ảnh thờ của những người đã khuất thân cận trong gia đình như ông bà, cha mẹ ... tùy theo ngôi thứ mà đặt cho đúng trái, phải, trước, sau.

14 tháng 2 2018

bạn chép trên mạng ak