Đóng vai NHÂN VẬT NGƯỜI EM kể lại câu chuyện " SỰ TÍCH HOA THUỶ TIÊN " ( hộ e vs ạ ngắn thoii cũng dc ạ ) em rất vội ạ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bạn tham khảo ạ!
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ còn thể hiện khát vọng tự do mãnh liệt, cùng tình yêu nước cháy bỏng của người dân Việt Nam thời bấy giờ.
Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ I.Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Nhớ rừng II.Dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế LữA. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả tác phẩm: Thế Lữ là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới giai đoạn đầu 1932 - 1945. Bài thơ “Nhớ rừng” là một trong những tác phẩm nổi tiếng, làm nên thành công cho hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn - Thế Lữ
- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ thông qua tâm trạng uất hận trước hoàn cảnh thực tại và nỗi nhớ thời quá khứ vàng son của con hổ để nói lên tâm trạng của chính những người dân đang chịu cảnh mất nước lúc bấy giờ.
B. Thân bài:
Luận điểm 1: Tâm trạng uất hận của con hổ khi bị giam cầm
Sử dụng một loạt các từ ngữ gợi cảm thể hiện tâm trạng chán nản, uất ức: “ căm hờn”, “nằm dài”, “chịu ngang hàng”, “bị làm trò”, “bị nhục nhằn”. Sự đau đớn, nhục nhã, bất bình của con hổ như bắt đầu trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thực tại tầm thường trước mắt.
Luận điểm 2: Quá khứ vàng son trong nỗi nhớ của con hổ
- Nằm trong cũi sắt, con hổ nhớ về chốn sơn lâm – nơi nó từng ngự trị, đó là nơi có hàng ngàn cây đại thụ, có tiếng gió rít qua từng kẽ lá, tiếng của rừng già ngàn năm. Tất cả gợi ra một khu rừng hoang dã, hùng vĩ như vô cùng bí ẩn .
- Hình ảnh con hổ giữa chốn rừng xanh bạt ngàn được miêu tả qua một loạt từ ngữ miêu tả, gợi hình: “dõng dạc”, “đường hoàng”, “lượn tấm thân”, “vờn bóng”, “ mắt…quắc”…, thể hiện sự uy nghi, ngang tàng, lẫm liệt của loài chúa tể rừng xanh.
- Hình ảnh con hổ khi còn làm vua chốn rừng xanh được miêu tả qua nỗi nhớ về quá khứ: Một loạt những hình ảnh sóng đôi giữa rừng già và loài chúa tể sơn lâm: “Đêm vàng bên bờ suối” – “ ta say mồi…uống ánh trăng”, “ngày mưa” – “ ta lặng ngắm giang sơn”, “bình minh…nắng gội” – “giấc ngủ ta tưng bừng”, “chiều…sau rừng” – “ta đợi chết…”.
- Việc sử dụng 1 loạt câu hỏi tu từ, đặc biệt là câu cuối đoạn đã thể hiện tâm trạng nuối tiếc, nhớ nhung một quá khứ vàng son, một thời kì oanh liệt, tự do, ngạo nghễ làm chủ thiên nhiên núi rừng.
Luận điểm 3: Nỗi uất hận khi nghĩ về thực tại tầm thường, giả dối
Quay trở về với hiện thực, con hổ với nỗi “uất hận ngàn thâu” đã vạch trần toàn bộ sự giả dối, tầm thường, lố bịch của cuộc sống trước mắt: Ấy là những “cảnh sửa sang tầm thường, giả dối”, cái bắt chước đầy lố bích của thiên nhiên giả tạo, cố cho ra cái “vẻ hoang vu” nơi rừng thiêng sâu thẳm.
Luận điểm 4: Khao khát tự do sục sôi trong lòng con hổ
Giọng điệu bi tráng, gào thét với núi rừng (“hỡi…”), lời nói bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ, sự nuối tiếc về quá khứ và khao khát tự do, dù trong giấc mộng, con hổ cũng muốn được quay về nơi rừng già linh thiêng.
⇒ Mượn lời của con hổ, tác giả đã thay cho tiếng lòng của con dân Việt Nam trong thời kì mất nước, ấy là tiếng than nuối tiếc cho một thời vàng son của dân tộc, là tiếng khao khát tự do cháy bỏng, sục sôi trong từng người dân yêu nước.
Luận điểm 5: Nghệ thuật
- Thể thơ tự do hiện đại, phóng khoáng, dễ dàng bộc lộ cảm xúc
- Ngôn ngữ độc đáo, có tính gợi hình, gợi cảm cao
- Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công: nhân hóa, so sánh, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…
- Giọng điệu, nhịp thơ linh hoạt, khi thì buồn thảm, khi hào hùng, lẫm liệt, theo trình tự logic hiện thực – quá khứ - hiện thực – quá khứ…
C. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật: “Nhớ rừng” không chỉ thành công ở nghệ thuật tinh tế, mà còn có giá trị lớn về nội dung, đại diện cho tiếng lòng của mọi người dân Việt Nam đang sục sôi trước hoàn cảnh đất nước.
- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Bài thơ góp phần to lớn vào sự thành công của phong trào Thơ mới
Trong thời kì phát triển của phong trào Thơ Mới, Thế Lữ vẫn luôn là cái tên được nhắc đến như là một cây bút xuất sắc nhất xuất hiện từ những ngày đầu tiên. Không ít những tác phẩm của ông góp phần vào sự phát triển không chỉ phong trào Thơ Mới mà còn có tên tuổi, nhưng đặc biệt và nổi bật nhất có lẽ là tác phẩm "Nhớ rừng". "Nhớ rừng" được tác giả Thế Lữ viết vào năm 1934 nhưng phải đến năm 1935 bài thơ mới được xuất bản và in trong tập "Mấy vần thơ".
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ thể hiện một tâm trạng u uất, chán nản, khát vọng cháy bỏng qua lời của một con hổ trong vườn bách thú. Mượn tâm trạng của vị chúa tể sơn lâm để nói lên cái tâm sự chung của toàn thể người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước. Thế Lữ dựng lên một khung cảnh vừa thực vừa ảo mà ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả hình ảnh được nhắc đến trong bài thơ đều xoay quanh cuộc sống của một con hổ. Đây là một con hổ bị giam hãm trong cũi sắt tại vườn bách thú, tự nó cảm nhận được về cuộc sống tầm thường, thiếu tự do ở nơi đây. Cho nên Hổ cảm thấy tiếc nuối, nó nhớ lại quá khứ oanh liệt trước đây của mình khi còn ở núi rừng sâu thẳm hùng vĩ. Bấy nhiêu thôi cũng đủ để ta thấy được con hổ đang đứng giữa hai cảnh tượng, một cảnh tượng ở thực tại với cũi sắt, với sự thiếu tự do, ngao ngán và đối lập là nỗi nhớ quá khứ tự do, chúa tể của sơn lâm, oanh hùng thú vị biết bao.
Chúa tể sơn lâm của núi rừng là hổ, nhắc đến núi rừng thì chẳng thể nào thiếu đi hổ. Nhưng hiện tại thì chúa tể rừng sâu đang phải chịu cảnh sống nhục nhằn trong cũi sắt ở vườn thú. Không gian sống bị thu hẹp đi rất nhiều, không những vậy, nó còn bị biến thành một thứ trò lạ mắt, một vật đồ chơi trong mắt của con người. Với nó cuộc sống bây giờ nhạt nhẽo hơn bao giờ hết, nó đang phải sống ở một nơi không phải cho nó và bị cư xử không đúng với cương vị của một vị chúa tể sơn lâm.
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.
Cuộc sống tù túng khiến Hổ bất bực, chẳng thể nào thoát ra mà cũng chẳng thể nào chấp nhận được cái nơi sống tù túng như vậy, nên đành nhìn thời gian trôi qua vô ích. Bị nhốt trong "cũi sắt" Hổ chỉ còn biết căm hờn, "gậm" nữa nỗi phẫn uất thành "khối" mà mãi chẳng tan mà thậm chí càng gậm càng đắng.
Cái sự đau đớn nhất của chúa tể sơn lâm là nay lại bị tầm thường hóa, vị thế bởi vậy mà bị xuống cấp:
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tự lự
Có thể thấy đây là một nét tâm trạng điển hình không chỉ của Hổ mà của toàn thể nhân dân ta vào những năm 1934, nỗi nhục, căm hờn, cay đắng của Hổ giống như sợi dây xiềng xích nô lệ nhân dân ta trông tăm tối.
Hổ chẳng thể nào quên đi cái thuở vàng son đầy oanh liệt của mình:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Hổ nhớ thuở tung hành trước đây của nó ở khi còn ở núi rừng hùng vĩ, nhớ những khúc nhạc rừng hùng tráng dữ dội. Nghệ thuật ngắt nhịp 4 - 2- 3, 5 - 5, 4 - 2 - 2... giúp cho câu thơ trở nên biến hóa, cân xứng làm dậy lên nỗi nhớ khôn nguôi, cồn cào của Hổ. Một sức mạnh của uy quyền bất khả xâm phạm của Hổ cũng được nhà thơ thể hiện trong những câu thơ kế tiếp đây:
Nhớ cánh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi...
"Gào, thét, hét" là những động từ đặc tả, chính những động từ đó đã tạo nên khúc trường ca dữ dội của núi rừng với suối ngàn thiêng liêng và không kém phần hùng tráng. Ở đây ta thấy được rõ những câu thơ trên là tác phẩm tuyệt bút của Thế Lữ, chính chúng đã làm thêm tính sang trọng cho toàn thể phong trào Thơ Mới và tạo nên cái hay của toàn bài thơ. Hổ nhớ về cánh rừng sơn lâm bạt ngàn mà từng tung hoành, những bước chân của hổ cũng vậy mà dõng dạc và đương hoàng hơn. Ở nơi đó nó có sự uy quyền riêng kể cả khi trời sáng hay đã tối, chiếc "mắt thần" của hổ trong đêm càng làm cho mọi vật sợ hãi mà im hơi, một sự uy quyền vốn có nay đã chẳng còn.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn hào hoa không tên, không tuổi
"Ta" vang lên thật kiêu hãnh, mang trong đó một sự tự hào mà tác giả dùng để miêu tả, khắc họa nên chiều sâu của sự tâm linh cùng với chiều cao của uy quyền. Nơi này chẳng tên cũng chẳng có tuổi nhưng có một sự uy quyền mặc định dành cho hổ, khác hẳn với nơi vườn thú giam hãm này, hổ chỉ là một thứ mua vui rẻ rúng, rẻ rúng ở đây không thể tính được bằng hiện vật là tiền hay thứ gì khác mà nó tính bằng giá trị sự uy nghiêm. Hổ là một vị vua đã suy tàn, bị nhốt lại ở nơi có tên có tuổi nhưng chẳng còn phải là chúa tể của muôn loài, sự kiêu hãnh nay cũng đã mất.
Các câu hỏi tu từ liên tiếp được xuất hiện như một nỗi niềm thể hiện tình cảm và khiêu gợi nỗi nhớ của hổ như: "nào đâu...", "đâu những ngày...", "đâu những bình minh...",... Bốn nỗi nhớ tiêu biểu của chúa sơn lâm đều được tác giả nói đến trong đoạn thơ, nó nhớ triền miên dù ngày hay đêm, sáng hay chiều, mưa hay năng, thức hay ngủ,... Nhà thơ Thế Lữ đã tái hiện lại không gian nghệ thuật qua hình ảnh con hổ triền miên suy nghĩ một cách tinh tế. Dù là chúa sơn lâm nhưng hẳn đều có lúc mơ mộng giữa cảnh suối trăng, cũng có lúc trầm ngầm trong chiêm nghiệm, cũng có lúc nén xuống và cũng có lúc kiên nhẫn đợi chờ để "tung hoành" và "quắc mắt"
Nỗi nhớ nào cũng đều có điểm dừng, chúa sơn lâm trở về với thực tại là đang ở trong cái cũi sắt, hổ đau đớn và cay đắng vô cùng. Cảm giác giống như một quả núi ở núi rừng của riêng hổ bị sụp đổ. Ở đây câu cảm thán và câu hỏi tu từ được tác giả kết hợp lại với nhau, tạo nên sự dữ dội cho lời thơ, lời than của một chúa tể "sa cơ" và của kẻ phi thường mà thất thế.
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Chỉ còn biết nhắn gửi tha thiết về nỗi nhớ "cảnh nước non hùng vĩ":
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Chung quy lại, ta có thể thấy được bài thơ "Nhớ rừng" không chỉ đơn giản thành công về nghệ thuật mà còn thành công cả về nội dung, nội dung của bài thơ chính là tiếng lòng của mọi người dân Việt Nam đang sục sôi trước hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ. Nhà thơ Thế Lữ đã thể hiện rất đúng cái tinh thần và tâm trạng cùng cực chung của toàn thể người dân, đưa thơ văn không rời xa với thực tế nhưng vẫn mang những ẩn ý sâu xa riêng, tạo nên nét độc đáo trong thơ văn riêng của mình.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống đạo lí vô cùng tốt đẹp, được xây dựng và phát triển trên nền tảng của tư tưởng nhân đạo. Một trong những tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất đạo đức của con người chính là lòng nhân ái và lối sống vị tha. Từ xưa, ông cha ta đã quan tâm dạy dỗ con cháu những bài học đạo lí qua ca dao, tục ngữ mà câu: Thương người như thể thương thân là một ví dụ điển hình.
Thế nào là thương thân? Thương thân là thương mình xót xa cám cảnh cho mình khi lâm vào cảnh đói không cơm, rét không áo, ốm không thuốc và lúc hoạn nạn không ai giúp đỡ. Thế nào là thương người? Người ở đây là mọi người sống quanh ta; là anh em, cha mẹ, xóm giềng cùng chung quê hương, đất nước. Thương người như thể thương thân có nghĩa là ta yêu quý bản thân ta thế nào thì hãy chia sẻ, cảm thông, thương yêu người khác như thế. Nếu ta từng trải qua đau đớn, bệnh hoạn, ngặt nghèo thí khi thấy người khác lâm vào cảnh ngộ tương tự, ta hãy thương xót, cảm thông, giúp đỡ, quan tâm đến họ như đối với chính ta vậy.
Nhưng để có được một lối sống nhân ái cao cả quả không phải là một chuyện dễ dàng. Phải có một tấm lòng trong sáng, một trái tim nhân hậu và giàu đức hi sinh mà tất cả những điều ấy là kết quả của một quá trình tu tâm, dưỡng tính lâu dài.
1.
Trong vườn hồn tôi, gió hát ca, Nhịp đời xoay chuyển, thế gian qua. Đám mây trắng bồng bềnh trên bầu trời, Như ước mơ, bay cao, vút xa.
Bước chân nhỏ nhẹ trên đỉnh cỏ, Lời hứa rơi như giọt sương sớm mơ. Cuộc sống như bức tranh đầy màu sắc, Ôm trọn yêu thương, tâm hồn lạc vui.
Trăng khuyết soi sáng bên bờ suối, Ngọt ngào hương hoa, ngát khắp mọi nơi. Nắng ban mai làn da ấm áp, Khiến trái tim thêm yêu đời.
Đêm buông xuống, tĩnh lặng mơ hồ, Ngôi sao lấp lánh, như hạnh phúc đến bồi hồi. Giấc mơ nồng thắm, hòa mình vào bình yên, Tự do bay lượn, như chim hòa minh.
Và trong tâm hồn, nơi bình yên nhất, Âm nhạc tự do, giữa không gian tĩnh lặng. Bài thơ như làn gió thoảng qua, Mang theo niềm vui, tràn đầy hạnh phúc.
Trong vườn hồn tôi, gió hát ca,
Nhịp đời xoay chuyển, thế gian qua.
Đám mây trắng bồng bềnh trên bầu trời,
Như ước mơ, bay cao, vút xa.
Bước chân nhỏ nhẹ trên đỉnh cỏ,
Lời hứa rơi như giọt sương sớm mơ.
Cuộc sống như bức tranh đầy màu sắc,
Ôm trọn yêu thương, tâm hồn lạc vui.
Trăng khuyết soi sáng bên bờ suối,
Ngọt ngào hương hoa, ngát khắp mọi nơi.
Nắng ban mai làn da ấm áp,
Khiến trái tim thêm yêu đời.
Đêm buông xuống, tĩnh lặng mơ hồ,
Ngôi sao lấp lánh, như hạnh phúc đến bồi hồi.
Giấc mơ nồng thắm, hòa mình vào bình yên,
Tự do bay lượn, như chim hòa minh.
Và trong tâm hồn, nơi bình yên nhất,
Âm nhạc tự do, giữa không gian tĩnh lặng.
Bài thơ như làn gió thoảng qua,
Mang theo niềm vui, tràn đầy hạnh phúc.
Dàn ý tả lễ hội đền thượng
Lễ hội Đền Thượng là một trong những lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam, diễn ra hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Thượng, xã Đường Lâm, huyện Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Dàn ý tả lễ hội Đền Thượng có thể được tổ chức như sau:
I. Giới thiệu về lễ hội Đền Thượng
- Đền Thượng là một ngôi đền cổ có niên đại hơn 1.000 năm, được xây dựng để thờ cúng các vị thần linh và các vị anh hùng dân tộc.
- Lễ hội Đền Thượng là dịp để người dân tôn vinh và tri ân các vị thần linh và anh hùng dân tộc đã có công đóng góp cho đất nước.
II. Các hoạt động trong lễ hội Đền Thượng
1. Lễ cúng và lễ hội
- Ngày lễ, người dân đến Đền Thượng để tham gia các nghi lễ cúng tế, bày tỏ lòng thành kính và tôn trọng đối với các vị thần linh và anh hùng dân tộc.
- Lễ hội diễn ra với nhiều hoạt động văn hóa truyền thống như diễu hành, múa lân, múa rồng, hát xoan, chèo, hát chầu văn, đua ghe nước, đua gà cựa, v.v.
2. Triển lãm và trưng bày
- Trong lễ hội, có các gian hàng trưng bày và bán các sản phẩm truyền thống như đồ gốm, đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm, v.v.
- Triển lãm các tác phẩm nghệ thuật, ảnh và hiện vật liên quan đến lịch sử và văn hóa của Đền Thượng và vùng đất xung quanh.
3. Hoạt động văn hóa và giải trí
- Có các buổi biểu diễn nghệ thuật, nhạc hội, hát văn, hát quan họ, v.v.
- Các trò chơi dân gian như kéo co, nhảy sạp, bắn cung, đánh cờ tướng, v.v.
III. Ý nghĩa của lễ hội Đền Thượng
- Lễ hội Đền Thượng không chỉ là dịp để tôn vinh và tri ân các vị thần linh và anh hùng dân tộc, mà còn là cơ hội để gắn kết cộng đồng, duy trì và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
- Lễ hội cũng góp phần thúc đẩy du lịch văn hóa, giới thiệu văn hóa và lịch sử của Đền Thượng và vùng đất xung quanh đến du khách trong và ngoài nước.
IV. Kết luận
- Lễ hội Đền Thượng là một trong những lễ hội truyền thống quan trọng của dân tộc Việt Nam, mang trong mình giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt.
- Qua lễ hội, người dân có cơ hội tôn vinh và tri ân các vị thần linh và anh hùng dân tộc, đồng thời gắn kết cộng đồng và duy trì các giá trị văn hóa truyền thống.
Đoạn thơ từ câu "Từ khi chân dẫn bước" đến câu "Không một nhân ám muội!" trong bài thơ "Con cá, chột nưa" của Tổ Hữu thể hiện sự tuyệt vọng và đau khổ của nhân vật chính. Tổ Hữu sử dụng cầu mở rộng chủ ngữ để tăng cường hiệu ứng và sự tương tác giữa các chủ ngữ. Câu "Từ khi chân dẫn bước" và câu "Không một nhân ám muội!" đều được gạch chân để nhấn mạnh và chú thích rõ một chủ ngữ mở rộng. Đoạn thơ này gợi lên trong em cảm giác xót xa và đau lòng, nhắc nhở về sự cô đơn và khó khăn trong cuộc sống, và cũng là một lời nhắc nhở về tình người và sự đồng cảm.(ko chep mạng nhe)