K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

23 tháng 5
Thế kỷ 21 chứng kiến sự hội nhập toàn cầu sâu rộng, với những tiến bộ vượt bậc về công nghệ, kinh tế và văn hóa. Mỗi quốc gia đều có cơ hội học hỏi, tiếp thu những tinh hoa từ các quốc gia khác để phát triển. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là học sinh ngày nay nên hướng đến sự phát triển theo chuẩn toàn cầu hay giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc mình Việc học sinh "hướng đến sự phát triển theo chuẩn toàn cầu" là một xu hướng tất yếu trong thời đại hội nhập. Tiếp thu kiến thức, kỹ năng tiên tiến, ngôn ngữ quốc tế... giúp học sinh mở rộng tầm nhìn, có thêm cơ hội học tập và làm việc trên toàn thế giới. Đây là yếu tố quan trọng giúp cá nhân và quốc gia hòa nhập, cạnh tranh và phát triển trong môi trường toàn cầu hóa. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tầm quan trọng của việc "giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống". Bản sắc văn hóa, với những giá trị đạo đức, lối sống, ngôn ngữ, nghệ thuật... là nền tảng tinh thần, giúp định hình nhân cách, ý thức dân tộc và tạo nên sự khác biệt của mỗi quốc gia. Giữ gìn bản sắc giúp mỗi người có niềm tự hào về quê hương, đất nước, và đồng thời giúp quốc gia giữ vững vị thế độc đáo trong cộng đồng quốc tế. Một học sinh ngày nay nên có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này. Đó là vừa tiếp thu những kiến thức, kỹ năng quốc tế để phát triển toàn diện, vừa giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc. Học sinh cần hiểu biết về văn hóa, lịch sử, truyền thống của đất nước, yêu mến và tự hào về những giá trị đó. Đồng thời, học sinh cần tiếp thu kiến thức, kỹ năng quốc tế để mở rộng tầm nhìn, có thêm cơ hội phát triển trong môi trường toàn cầu. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, việc học sinh vừa hướng đến sự phát triển theo chuẩn toàn cầu, vừa giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống là một yêu cầu tất yếu. Chỉ khi có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này, học sinh mới có thể trở thành những công dân toàn cầu, có ý thức về trách nhiệm với đất nước và đóng góp vào sự phát triển bền vững của xã hội.
23 tháng 5

Thế kỷ 21 chứng kiến sự hội nhập toàn cầu sâu rộng, với những tiến bộ vượt bậc về công nghệ, kinh tế và văn hóa. Mỗi quốc gia đều có cơ hội học hỏi, tiếp thu những tinh hoa từ các quốc gia khác để phát triển. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là học sinh ngày nay nên hướng đến sự phát triển theo chuẩn toàn cầu hay giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc mình Việc học sinh "hướng đến sự phát triển theo chuẩn toàn cầu" là một xu hướng tất yếu trong thời đại hội nhập. Tiếp thu kiến thức, kỹ năng tiên tiến, ngôn ngữ quốc tế... giúp học sinh mở rộng tầm nhìn, có thêm cơ hội học tập và làm việc trên toàn thế giới. Đây là yếu tố quan trọng giúp cá nhân và quốc gia hòa nhập, cạnh tranh và phát triển trong môi trường toàn cầu hóa. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tầm quan trọng của việc "giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống". Bản sắc văn hóa, với những giá trị đạo đức, lối sống, ngôn ngữ, nghệ thuật... là nền tảng tinh thần, giúp định hình nhân cách, ý thức dân tộc và tạo nên sự khác biệt của mỗi quốc gia. Giữ gìn bản sắc giúp mỗi người có niềm tự hào về quê hương, đất nước, và đồng thời giúp quốc gia giữ vững vị thế độc đáo trong cộng đồng quốc tế. Một học sinh ngày nay nên có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này. Đó là vừa tiếp thu những kiến thức, kỹ năng quốc tế để phát triển toàn diện, vừa giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc. Học sinh cần hiểu biết về văn hóa, lịch sử, truyền thống của đất nước, yêu mến và tự hào về những giá trị đó. Đồng thời, học sinh cần tiếp thu kiến thức, kỹ năng quốc tế để mở rộng tầm nhìn, có thêm cơ hội phát triển trong môi trường toàn cầu. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, việc học sinh vừa hướng đến sự phát triển theo chuẩn toàn cầu, vừa giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống là một yêu cầu tất yếu. Chỉ khi có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này, học sinh mới có thể trở thành những công dân toàn cầu, có ý thức về trách nhiệm với đất nước và đóng góp vào sự phát triển bền vững của xã hội.

21 tháng 5

Dưới đây là đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích đặc sắc nghệ thuật trong truyện “Thầy giáo dạy vẽ của tôi”:


Truyện “Thầy giáo dạy vẽ của tôi” nổi bật với nghệ thuật kể chuyện chân thực, sinh động và giàu cảm xúc. Tác giả khéo léo xây dựng hình ảnh thầy giáo với phong cách giản dị, gần gũi nhưng rất sâu sắc, tạo nên một nhân vật vừa có tài năng vừa giàu lòng nhân ái. Ngôn ngữ trong truyện trong sáng, nhẹ nhàng, giàu hình ảnh, giúp người đọc dễ dàng cảm nhận được không khí lớp học và tình cảm giữa thầy và trò. Đặc biệt, truyện sử dụng nhiều chi tiết đời thường, tự nhiên nhưng lại rất ý nghĩa, thể hiện sự quan sát tinh tế và cảm nhận sâu sắc của tác giả về cuộc sống và con người. Cách miêu tả tâm trạng nhân vật rất tinh tế, giúp người đọc đồng cảm với những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật “tôi” và thầy giáo. Ngoài ra, truyện còn sử dụng nghệ thuật đối lập giữa sự ngây thơ, hồn nhiên của học trò và sự nghiêm khắc, tâm huyết của thầy giáo, tạo nên sức hấp dẫn và chiều sâu cho tác phẩm. Tổng thể, nghệ thuật kể chuyện trong truyện góp phần làm nổi bật chủ đề về tình thầy trò và giá trị của sự dạy dỗ chân thành, sâu sắc.


Nếu bạn cần đoạn văn ngắn hơn hoặc mở rộng hơn, mình sẵn sàng giúp bạn!

Câu 1. (2 điểm) Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích đặc sắc nghệ thuật trong truyện “Thầy giáo dạy vẽ của tôi”. NHANH DC TICKTHẦY GIÁO DẠY VẼ CỦA TÔI         Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ…[…] Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com-lê đen...
Đọc tiếp

Câu 1. (2 điểm) Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích đặc sắc nghệ thuật trong truyện “Thầy giáo dạy vẽ của tôi”. NHANH DC TICK
THẦY GIÁO DẠY VẼ CỦA TÔI

         Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ…

[…] Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com-lê đen đã cũ lắm, nhưng chiếc ca-vát vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ. Thầy thường đội mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.

Thầy luôn đăm chiêu nhưng hiền hậu. Chẳng bao giờ thầy cáu giận, gắt gỏng với chúng tôi. Cũng chẳng bao giờ thầy bỏ một tiết lên lớp nào, kể cả những hôm thầy yếu mệt, sốt cao, giọng run run.

Các cô giáo, thầy giáo trong trường kể rằng thầy là một trong số những hoạ sĩ học khoá đầu tiên của Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương. Bạn học của thầy, hầu hết đều đã trở thành những hoạ sĩ tên tuổi, có người nổi tiếng cả ở nước ngoài, riêng thầy Bản chỉ là một giáo viên dạy vẽ bình thường ở một trường cấp hai.

Thầy dạy chúng tôi kẻ chữ, vẽ cái sọt giấy, lọ mực, viên gạch, thỉnh thoảng mới có một bài “vẽ tự do”: cảnh chùa hoặc cảnh lao động ở vườn trường. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy. Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội hoạ, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ. Có những lần, thầy đưa chúng tôi về nhà thầy chơi, về gian gác xếp đầy sách vở và tranh ảnh. Thầy đưa chúng tôi xem những quyển sách của các bậc danh hoạ. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm… Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý. Chúng tôi có đi hỏi nhưng chẳng mấy ai biết tên hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản.

         (Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr.178)

3

Câu chuyện “Thầy giáo dạy vẽ của tôi” của tác giả xuân Quỳnh đưa người đọc đến một dòng cảm xúc nghẹn ngào, sâu lắng về đạo làm trò, nổi bật hơn cả là tấm lòng thương yêu học trò, tận tâm với công việc của nhân vật thầy Bản qua hồi tưởng của cậu học trò Châu - họa sĩ - kỹ sư nhà máy cơ khí.


Hình ảnh về người thầy luôn đọng mãi trong tâm trí Châu với những kỷ niệm không thể nào quên. Thầy Bản là một người đầy có bề dày kinh nghiệm của nghề giáo. Khi Châu học lớp năm, thầy đã có mái tóc bạc phơ. Thầy ăn mặc theo phong cách xưa cũ với bộ com-le đen sờn màu, thầy đội mũ nồi, đeo dày và chiếc cặp da nâu cũ kĩ, râu mép của thầy đã lấm tấm bạc. Chỉ bằng vài chi tiết, ta có thể thấy thầy Bản đã bước vào tuổi xế chiều, thầy cống hiến cả cuộc đời mình để truyền lại cho thế hệ mầm non một kho tàng hội họa trù phú. Thầy yêu thương tất cả học sinh của mình, thầy ân cần, hiền hậu, chẳng bao giờ gắt gỏng hay cáu giận gì. Dù tuổi tác không còn trẻ, sức khỏe đã giảm sút đi nhiều nhưng thầy luôn tận tâm với công việc. Mặc cho có ốm yếu, sốt cao nhưng thầy chưa bao giờ phụ lòng học sinh, thầy luôn có mặt đủ, không bỏ một tiết lên lớp nào. Hiếm có thể thấy một người thầy nào tâm huyết với học trò, với nghề như vậy. 


Có lẽ bởi vì thầy yêu cái đẹp, tâm hồn say mê hội họa đã dẫn dắt thầy gắn bó với nghề này, gắn bó với những cô cậu học trò đáng yêu. Thầy muốn gửi gắm ước mơ, khát vọng của mình vào những mầm non tươi đẹp của đất nước. Thầy dạy học sinh chu đáo, tỉ mẩn từng chút một. “Thầy dạy chúng tôi kẻ chữ, vẽ cái sọt giấy, lọ mực,... Thầy ân cần, tỉ mỉ chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ.” Thầy tận tâm hướng dẫn học sinh từng li từng tí, thầy mong muốn từng nét vẽ là từng ước mơ được chắp cánh bay xa.


Hoài bão về nghệ thuật vẫn luôn rực cháy trong trái tim của thầy. Đó là “Những câu chuyện về hội họa, về màu sắc và đường nét, về thế giới thứ hai rực rỡ, diệu kỳ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới khu vườn tốt lành và đẹp đẽ”. Qua lời kể của Châu về câu chuyện của thầy, có thể thấy hội họa đã trở thành nguồn sống, nhịp thở, hòa cùng dòng máu chảy trôi trong con người thầy. Nguồn sống đó còn thể hiện ở những bức học tỉ mỉ, nhiều màu sắc về vạn vật xung quanh của thầy trên căn gác mái. Khát khao cháy bỏng là thế nhưng trái tim của thầy cũng yếu đuối vô cùng. Thầy bồi hồi, xúc động khi báo tin bức tranh của mình được trưng bày ở triển mỹ thuật thành phố. Thầy cứ loay hoay, đi đi lại lại ngắm nhìn bức tranh của mình mãi không thôi. Ta càng thấy đồng cảm và thương thầy hơn khi thầy bối rối vì cảm động thông báo với học trò rằng bức tranh của thầy đã được một số người thích và ghi nhận. Ấy thế mà thầy khiêm tốn, ân hận nói rằng: “Bức tranh ấy tôi chưa được vừa ý...Nếu vẽ lại tôi sẽ sửa chữa nhiều hơn.” Thầy đâu biết rằng lời bình trong cuốn sổ cảm tưởng đó chính do những cô cậu học trò vì yêu mến thầy, thương cảm cho tài năng bị chôn vùi của thầy nên mới quyết định thực hiện hành động ý nghĩa đặc biệt.


Người thầy đáng kính đó nay đã đi xa nhưng để lại muôn vàng kính trọng cho thế hệ học sinh bấy giờ. Thầy làm cho những tâm hồn ngây thơ biết yêu hội họa. Thầy trở thành một tấm gương sáng chói về sự cần cù, chăm chỉ, cống hiến hết mình với công việc, một con người giàu tình yêu thương, tấm lòng trong sạch, chân chính giúp cho thế hệ mai sau noi theo. Thầy không nổi tiếng và thành công trong sự nghiệp nhưng trong mắt học trò ,thầy luôn là hình mẫu lý tưởng của sự hiền hòa và sự quan tâm đến học sinh 

17 tháng 5

cái này giống phân tích tp hơn là phân tích nghệ thuật

21 tháng 5

v

21 tháng 5

Trong bài thơ Áo cũ của Lưu Quang Vũ, hình ảnh chiếc áo cũ được khắc họa đầy xúc động và mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Chiếc áo không chỉ là vật dụng đơn giản mà còn là biểu tượng của ký ức, tình cảm thiêng liêng giữa mẹ và con. Chiếc áo “đứt sờn, màu bạc hai vai” gợi lên hình ảnh thời gian trôi qua, sự hao mòn của vật chất cũng như những vất vả, hy sinh của mẹ trong suốt quá trình nuôi dưỡng con lớn. Hình ảnh mẹ vá áo bằng đôi tay đã mờ, mắt đã kém càng làm nổi bật tình yêu thương vô bờ bến và sự tần tảo của mẹ. Chiếc áo cũ gắn liền với những kỷ niệm, những tháng ngày con lớn lên dưới sự chăm sóc của mẹ, khiến con “càng yêu áo thêm”. Khi chiếc áo dài hơn, cũng là lúc con nhận ra mẹ đã già đi, như lời nhắc nhở về sự trôi qua của thời gian và tình mẫu tử bền chặt. Qua hình ảnh chiếc áo cũ, bài thơ gửi gắm thông điệp về lòng biết ơn, sự trân trọng những giá trị truyền thống và tình cảm gia đình sâu sắc, khiến người đọc cảm nhận được sự ấm áp và xúc động.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
5 tháng 5

Lễ hội truyền thống là những viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa dân tộc, nơi lưu giữ và tái hiện những giá trị tinh thần, phong tục tập quán tốt đẹp của cha ông. Tuy nhiên, đáng buồn thay, trong bối cảnh hội nhập và sự trỗi dậy của văn hóa cá nhân, một bộ phận không nhỏ bạn trẻ lại có những biểu hiện lệch chuẩn về trang phục và hành động khi tham gia vào các sự kiện thiêng liêng này. Vấn đề này không chỉ làm xói mòn bản sắc văn hóa mà còn gây ra những hình ảnh phản cảm, đi ngược lại ý nghĩa cao đẹp của lễ hội.

Một trong những biểu hiện dễ nhận thấy nhất là sự lựa chọn trang phục thiếu tôn trọng không gian văn hóa truyền thống. Thay vì những bộ áo dài duyên dáng, áo tứ thân nền nã hay những trang phục lịch sự, kín đáo, một số bạn trẻ lại diện những bộ cánh hở hang, cắt xẻ táo bạo, mang đậm phong cách cá nhân hoặc ảnh hưởng từ văn hóa ngoại lai. Sự đối lập này không chỉ tạo nên sự lạc lõng, kệch cỡm mà còn thể hiện sự thiếu hiểu biết, thậm chí là thái độ hời hợt, thiếu tôn trọng đối với những giá trị văn hóa lâu đời.

Bên cạnh trang phục, hành động của một số bạn trẻ tại lễ hội cũng đáng lo ngại. Thay vì thái độ trang nghiêm, thành kính khi tham gia các nghi lễ, chúng ta lại chứng kiến những hành vi thiếu ý thức như nói chuyện lớn tiếng, cười đùa quá khích, chen lấn xô đẩy, thậm chí là có những cử chỉ thô tục, phản cảm. Việc sử dụng điện thoại để quay phim, chụp ảnh một cách thiếu tế nhị, làm ảnh hưởng đến không gian linh thiêng của lễ hội cũng là một thực trạng đáng buồn. Những hành động này không chỉ làm mất đi vẻ đẹp trang trọng, thiêng liêng của lễ hội mà còn thể hiện sự thiếu tôn trọng đối với các bậc tiền nhân và cộng đồng.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể xuất phát từ nhiều phía. Sự du nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây cùng với sự phát triển của mạng xã hội đã tạo ra những trào lưu thời trang và lối sống mới, đôi khi đi ngược lại những giá trị truyền thống. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt trong giáo dục về văn hóa, lịch sử và ý thức cộng đồng cũng khiến một bộ phận bạn trẻ chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của các lễ hội truyền thống. Mặt khác, sự buông lỏng quản lý, thiếu những quy định cụ thể và chế tài xử lý đối với những hành vi phản cảm tại lễ hội cũng góp phần làm gia tăng tình trạng này.

Để khắc phục tình trạng trên, cần có sự chung tay của gia đình, nhà trường, xã hội và chính bản thân mỗi bạn trẻ. Gia đình cần giáo dục con em về những giá trị văn hóa truyền thống, về cách ứng xử văn minh nơi công cộng. Nhà trường cần tăng cường các hoạt động giáo dục ngoại khóa, giúp học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử, ý nghĩa của các lễ hội. Các cơ quan quản lý văn hóa cần có những quy định cụ thể về trang phục và hành vi khi tham gia lễ hội, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, nhắc nhở. Quan trọng hơn hết, mỗi bạn trẻ cần nâng cao ý thức tự giác, thể hiện sự tôn trọng đối với di sản văn hóa của dân tộc bằng những hành động và trang phục phù hợp, góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của lễ hội truyền thống. Chỉ khi đó, những sự kiện văn hóa này mới thực sự trở thành nơi kết nối cộng đồng, giáo dục thế hệ trẻ và bảo tồn bản sắc văn hóa Việt Nam.

21 tháng 5

Dưới đây là bài văn phân tích hình ảnh khói bếp trong bài thơ Hoa loa kèn của Vũ Quần Phương, khoảng 400 chữ, bạn có thể tham khảo:


Phân tích hình ảnh khói bếp trong bài thơ "Hoa loa kèn" của Vũ Quần Phương

Bài thơ Hoa loa kèn của Vũ Quần Phương đã khắc họa một cách rất tinh tế và sâu sắc hình ảnh khói bếp – một biểu tượng bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam. Khói bếp không chỉ là hình ảnh thiên nhiên mà còn chứa đựng biết bao ký ức, tình cảm và sự gắn bó với cuộc sống giản dị, mộc mạc của con người nơi đây.

Ngay từ những câu thơ đầu, làn khói bếp hiện lên như một tấm màn mờ ảo, hòa quyện với sương mờ và cây cối tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa thực vừa mơ. Khói bếp không chỉ phủ kín mái rạ, cây xoan, cây muỗm mà còn làm cho cả mái đình rêu xanh như đắm say trong không gian ấy. Hình ảnh này gợi lên sự yên bình, tĩnh lặng và ấm áp của một làng quê thân thương.

Khói bếp còn gắn liền với hình ảnh người mẹ tảo tần, cơi rơm thổi lửa, chăm sóc gia đình. Tiếng chim gù trên tổ bếp, tiếng em nhỏ học bài bên ngưỡng cửa trong làn khói mờ mịt tạo nên một không gian đầm ấm, gần gũi. Khói bếp như sợi dây kết nối các thành viên trong gia đình, là biểu tượng của sự sum họp, của tình mẫu tử và sự chăm sóc tận tụy.

Hơn thế nữa, khói bếp trong bài thơ còn mang màu sắc rất đặc trưng của cuộc sống lao động, vất vả nhưng tràn đầy yêu thương. Mùi khói cay nồng, mùi rơm ướt hòa quyện với không khí sau cơn mưa đêm khiến người đọc cảm nhận được sự chân thực, sinh động của cảnh vật và con người. Khói bếp như thấm đẫm cả không gian làng quê, len lỏi khắp mọi ngõ ngách, tạo nên một bức tranh vừa cụ thể vừa mơ màng, vừa hiện thực vừa trữ tình.

Qua hình ảnh khói bếp, tác giả không chỉ gợi nhớ về một tuổi thơ bình dị, mà còn thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc, niềm tự hào về cuộc sống giản đơn nhưng đầy ắp tình người. Khói bếp là biểu tượng của sự sống, của truyền thống và của những giá trị văn hóa lâu đời của làng quê Việt Nam.


Bài văn trên đã phân tích rõ nét hình ảnh khói bếp trong bài thơ, thể hiện sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên, giữa quá khứ và hiện tại, đồng thời bày tỏ tình cảm sâu sắc với quê hương. Nếu bạn cần bài văn theo phong cách khác hoặc dài hơn, mình sẵn sàng giúp bạn!

21 tháng 5

Trong bài thơ “Ba tôi” của Xuân Quỳnh, qua hình ảnh người cha khiêm nhường, dịu dàng với những lo toan thầm lặng, tác giả gợi lên cho mỗi chúng ta suy ngẫm sâu sắc về tình mẫu tử và tình con đối với mẹ. Mẹ là người bao dung, hy sinh thầm lặng, luôn lặng lẽ sẻ chia mọi buồn vui với ta, nhưng dường như không ai – kể cả người cha trong thơ – có thể nói trọn vẹn nỗi lòng mẹ. Từ đó, ta nhận ra một chân lý: tình mẹ cao cả đến mức vượt lên trên mọi lời lẽ, và bổn phận làm con là phải biết trân trọng, thấu hiểu và đáp đền tình yêu ấy.

Trước hết, hiểu đạo làm con nghĩa là biết lắng nghe, thấu cảm với mẹ. Mẹ bao giờ cũng đặt hạnh phúc của con lên trên hết, sẵn sàng quên mình để lo toan cho gia đình. Khi mẹ dặn dò từng li từng tí, không phải vì nghi ngờ con kém cỏi, mà bởi mẹ muốn con an toàn, muốn con trưởng thành. Lắng nghe mẹ không chỉ là nghe lời mẹ nói, mà còn là cảm nhận được lo lắng, tâm tư ẩn giấu trong từng cử chỉ, ánh mắt. Đôi khi, một cái ôm, một nụ cười động viên của con cũng đủ khiến mẹ vững lòng trước muôn vàn khó nhọc.

Thứ hai, làm con phải biết tri ân và báo đáp công ơn sinh dưỡng. Công ơn mẹ cha dạy dỗ, nuôi nấng, chúng ta khó đong đếm bằng vật chất. Dẫu có thành đạt hay xa xứ, con vẫn cần tìm cách bày tỏ lòng biết ơn: từ chăm sóc mẹ lúc ốm đau, chia sẻ gánh nặng gia đình, cho đến việc giữ gìn chữ hiếu trong hành xử, lời nói. Mỗi lần ta thành công trên đường đời cũng là niềm vui khôn tả đối với mẹ. Vì vậy, báo hiếu không phải chờ đến lúc “rảnh rỗi” hay khi mẹ đã già nua mà phải là việc làm thường nhật, liên tục.

Cuối cùng, làm con hiểu đạo còn là gìn giữ gia phong, tôn trọng truyền thống gia đình. Mẹ đưa ta đến với thế giới, dạy ta yêu thương và nhân ái. Con lớn lên, thành nhân, hãy sống sao cho mẹ luôn tự hào: lễ phép với người lớn, yêu thương và chia sẻ với những mảnh đời khó khăn, góp phần vun đắp mái ấm gia đình. Khi hành xử tử tế, ta đã phần nào đền đáp được ân nghĩa của mẹ.

Tóm lại, “Ba tôi” khơi gợi trong ta khát vọng gần mẹ hơn, thấu hiểu mẹ hơn và trân trọng tình mẫu tử thiêng liêng. Là con, chúng ta hãy luôn biết lắng nghe, biết ơn và biết sống xứng đáng với tấm lòng dạt dào của mẹ – người đã cho ta cả bầu trời yêu thương.

11 tháng 5

Lời mẹ dặn con trong câu thơ "Hãy yêu lấy con người, dù trăm cay ngàn đắng, đến với ai gặp nạn, xong rồi, chơi với cây!" chứa đựng một triết lý sống nhân văn và sâu sắc. Câu "Hãy yêu lấy con người" nhấn mạnh tầm quan trọng của tình yêu và lòng nhân ái trong cuộc sống, khuyên con phải biết yêu thương, sẻ chia với những người xung quanh. "Dù trăm cay ngàn đắng" là lời nhắc nhở về sự kiên trì, nhẫn nại trong những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Mặc dù gặp phải muôn vàn gian truân, nhưng tình yêu với con người vẫn phải là ưu tiên hàng đầu. Câu "Đến với ai gặp nạn" khẳng định thái độ nhân ái và trách nhiệm của con người đối với xã hội, nhất là khi người khác đang gặp khó khăn. Cuối cùng, "Xong rồi, chơi với cây!" như một lời dặn dò về sự cần thiết của việc tìm về với thiên nhiên, để tìm lại sự bình yên trong tâm hồn sau những cuộc sống vất vả, mệt mỏi. Lời mẹ không chỉ khuyên con về tình yêu thương con người mà còn về sự hòa mình vào thiên nhiên để tìm sự an yên cho bản thân.