K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

21 tháng 2

A. Mở bài 

B Thân bài

Luận điểm 1: Giới thiệu về vấn đề quan tâm < Gỉai thích nghĩa >

Luận điểm 2: Thực trạng vấn đề đó trong đời sống hiện nay

Luận điểm 3: Hậu quả

Luận điểm 4: Nguyên nhân dẫn đến

Luận điểm 5: Biện pháp ngăn chặn

C. Kết bài

20 tháng 2

Bài làm tham khảo:

“Ếch ngồi đáy giếng” là một trong những truyện ngụ ngôn để lại cho người đọc bài học sâu sắc, truyện khuyên chúng ta không nên chủ quan, kiêu ngạo mà hãy luôn cố gắng, phấn đấu để hoàn thiện mình.

 

Nhân vật chính trong câu chuyện là một chú ếch, chú ếch được giới thiệu sống trong một cái giếng, bạn bè và hàng xóm của nó chỉ là những con cua và con ốc nhỏ. Vì vậy, con ếch nghiễm nhiên trở thành con vật lớn nhất ở đó, cùng với tiếng ồm ộp từ xa khiến những con vật xung quanh kinh hãi. Mọi hiểu biết của chú ếch chỉ giới hạn trong không gian nhỏ bé của chiếc giếng, từ đó nhìn ra thế giới bên ngoài chỉ là một chiếc giếng nhỏ bằng chiếc vung. Vì vậy, ếch luôn cho mình là nhất.

Nhưng năm đó trời mưa to, nước dâng cao đã đưa ếch ra khỏi chiếc giếng nhỏ và hẹp. Với bản tính kiêu ngạo, hiểu biết nông cạn, luôn cho mình là nhất nên khi đến một môi trường mới, chúng ta vẫn không hề sợ hãi hay nể nang ai. Ếch quá kiêu hãnh nên đã bị một con trâu đi ngang qua giẫm chết. Đó chính là hình phạt thích đáng dành cho những kẻ hẹp hòi, luôn kiêu ngạo và khoe khoang.

Câu chuyện dạy cho người đọc những bài học quý giá. Truyện phê phán tính chủ quan, kiêu ngạo, hiểu biết nông cạn, lòng dạ hẹp hòi nhưng luôn cho mình là nhất, coi thường những người xung quanh. Đồng thời, nếu muốn thành công, bạn không thể ngồi mãi dưới đáy giếng nhỏ mà phải vươn ra thế giới, tích cực học hỏi và trau dồi khả năng của mình. Mỗi người phải nhận thức được những hạn chế, yếu kém của bản thân, từ đó nỗ lực tu dưỡng để khắc phục những hạn chế đó.

20 tháng 2

Nhà thám hiểm Ma Gien Lăng, một nhân vật sôi nổi và đầy tò mò, đã bắt đầu một hành trình ra Châu Mỹ để tìm kiếm những điều mới lạ và khám phá văn hóa độc đáo của các cộng đồng trên lục địa mới. Mỗi bước chân của anh là một chuyến phiêu lưu, từ rừng núi đến thảo nguyên, hòa mình vào những vùng đất chưa được khám phá.

Nhà thám hiểm này đã đối mặt với nhiều thách thức từ thiên nhiên hoang dã, nhưng bằng lòng kiên trì và sự sáng tạo, anh ta đã vượt qua mọi khó khăn. Cuộc phiêu lưu không chỉ là về việc tìm kiếm kho báu hay những vùng đất mới, mà còn là về sự hiểu biết về con người và văn hóa trong những điểm đất mới của Châu Mỹ.

Nhà thám hiểm Ma Gien Lăng trở nên nổi tiếng không chỉ vì những khám phá của mình mà còn là vì lòng đam mê cháy bỏng với sự đa dạng văn hóa và thiên nhiên của Châu Mỹ. Những câu chuyện về cuộc phiêu lưu của anh ta đã trở thành nguồn cảm hứng cho những người muốn tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh mình.

 

20 tháng 2

Ếch ngồi đáy giếng là một truyện ngụ ngôn rất hóm hỉnh và lí thú. Không chỉ vậy truyện còn để lại cho người đọc bài học giá trị.

Ếch chỉ là một loài vật bé nhỏ, tầm thường. Hoàn cảnh sống là đáy giếng - một nơi chật hẹp, tối tăm và khép kín. Mối quan hệ của ếch chỉ là những con vật nhỏ bé, tầm thường với con nhái, con cua, con cóc. Môi trường sống ấy, quan hệ “cộng đồng” ấy, nơi “vương quốc” đáy giếng đã làm cho ếch tự phụ, kiêu căng.

Tiếng kêu của ếch chỉ “ồm ộp” trong đáy giếng, nhưng các loài vật “rất hoảng sợ”. Vì ếch sống “lâu ngày”trong hoàn cảnh ấy, tật xấu phát triển thành “bệnh” trầm trọng. Điểm nhìn thì thấp bé, nhỏ hẹp. Tầm nhìn thì mù mờ chủ quan. Do đó, nằm ở đáy giếng, ngồi ở đáy giếng mà “ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng chiếc vung”. Đáng sợ hơn nữa là thái độ sống của ếch rất tự cao, tự đại, nó cho mình “oai như một vị chúa tể”.

Khi rời khỏi môi trường đáy giếng, ếch vẫn “quen thói cũ”, “nghênh ngang đi lại khắp nơi và cất tiếng kêu ồm ộp”. Từ đáy giếng lên mặt đất, điểm nhìn đã thay đổi, nhưng tầm nhìn, cách nhìn của ếch vẫn như cũ “nó đã nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời”, ếch vẫn “coi trời bằng vung”. Bầu trời bao la thế, mênh mông thế, nhưng đối với ếch thì vẫn nhỏ bé bình thường. Kết cục là ếch bị một con trâu đi ngang qua giẫm bẹp. Như vậy, t ruyện đã phê phán những người có hiểu biết hạn hẹp mà lại huênh hoang, kiêu ngạo. Qua đó, ông cha ta muốn khuyên nhủ rằng dù trong hoàn cảnh nào thì chúng ta luôn cần có cái nhìn toàn diện, đa chiều.

Tóm lại, Ếch ngồi đáy giếng là một truyện ngụ ngôn hấp dẫn, gửi gắm đến mỗi người một bài học về tầm nhìn trong cuộc sống.

20 tháng 2

TK ạ:

Trong cuộc sống của chúng ta, mấy ai đạt được thành công mà không trải qua khó khăn gian khổ. Bởi đường đời có lắm chông gai chứ không bằng phẳng như ta tưởng. Nếu ta nản lòng, thiếu ý chí khi bắt tay vào việc nhất là những công việc khó khăn, to lớn thì chắc chắn ta sẽ thất bại mà thôi.

Để nhắc nhở chúng ta bài học rèn luyện ý chí và lòng quyết tâm, ông bà ta xưa có dạy: “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Đọc câu tục ngữ, hình ảnh hiện ra trước mắt ta là những cuộn sóng to giữa một dòng sòng rông lớn mênh mông mà trên dòng sông đó một chiếc thuyền bé nhỏ đơn độc đang chơi vơi. Quả nhiên trước “sóng cả” này ai không lo sợ, không ngại cho số phận con thuyền, cho những người trong thuyền ây. Thường thì những làn sóng to này là nguyên nhân gây ra chết chóc, gây ra tai họa cho con người. Nhưng cũng không hẳn là thế. Bởi lẽ con người có thể chinh phục được thiên nhiên thì cũng có thể vượt được “sóng cả” này. Nếu người lái thuyền vẫn vững tay lái, tay chèo, bình tĩnh đối phó với mọi tình hình, qụyết tâm chèo để vượt qua cơn sóng cả ta tin chắc rằng con người sẽ chiến thắng. Ở đây “sóng cả" là muốn đề cập đến những việc lớn lao, khó khăn gian khổ. Đứng trước những trở ngại này ta đìtng vội nản lòng ngã chí, đừng vội “ngã tay chèo” mà phải vũng lòng, quyết tâm thì sẽ vượt qua, đi đến thắng lợi.

Câu tục ngữ là một bài học giáo dục về ý chí, nghị lực của ông cha ta từ ngàn xưa nhằm dạy dỗ lớp con cháu sau này. Lời dạy trên là phương châm cho mọi hành động của chúng ta, nó nhắc nhở ta phải luôn đề cao tinh thăn vượt khó, giữ vững ý chí, quyết tâm của mình.

20 tháng 2

hepl me cần gấp

(1.0 điểm) Từ nhân vật Tư trong văn bản, em suy nghĩ gì về tác động của hoàn cảnh sống đối với con người? Bài đọc: ĐỨA CON NGƯỜI VỢ LẼ      Tư nằm dán mình trên giường. Đầu anh nặng trĩu trên chiếc gối bông cáu ghét. Mắt nhìn trân trân lên sàn nhà; lúc ấy anh không nghĩ ngợi gì. Hai tay nặng nề rời rạc, thỉnh thoảng lại cố gượng đập nhẹ xuống phản, để xua đuổi những nỗi tê tê buồn...
Đọc tiếp

(1.0 điểm) Từ nhân vật Tư trong văn bản, em suy nghĩ gì về tác động của hoàn cảnh sống đối với con người?

Bài đọc:

ĐỨA CON NGƯỜI VỢ LẼ

     Tư nằm dán mình trên giường. Đầu anh nặng trĩu trên chiếc gối bông cáu ghét. Mắt nhìn trân trân lên sàn nhà; lúc ấy anh không nghĩ ngợi gì. Hai tay nặng nề rời rạc, thỉnh thoảng lại cố gượng đập nhẹ xuống phản, để xua đuổi những nỗi tê tê buồn buồn chạy trong các ống xương. Anh xoay mình lại cho đỡ mỏi. Mắt se sẽ nhắm lại, và lắng nghe những cảm giác chạy trong người. Ruột anh xót như cào. Bụng hóp lại. Mặt phờ phạc. Anh thấy cáu kỉnh vẩn vơ, những muốn càu nhàu mấy tiếng. Tư đói quá, đói lả người đi. Đã hai hôm nay rồi, anh chưa có hột cơm nào vào trong bụng. [...]

      Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là người quê mùa, nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc. Thầy anh mất năm trước, mẹ già anh mất năm sau. Nhà không làm ruộng nữa. Các anh Tư đều đi chợ trên, Tư phải thôi học ở nhà. Hai mẹ con lâm vào cảnh thất nghiệp. Ruộng không có mà làm; đi buôn – buôn xùng buôn xằng thôi cũng không có vốn. Anh em họ mạc thì thờ ơ lạnh nhạt, họ coi hình như không có mẹ con Tư trong gia đình nữa. Vả lại dẫu rằng nghèo, nhưng mẹ anh rất khái, không muốn chịu tiếng nhờ ai. Bà đi khâu thuê vá mướn kiếm gạo về nuôi con. Nhiều khi không có việc làm, mẹ con đành chịu đói. Những hôm ấy, bà thường trốn tránh, bà rất sợ phải nhìn cảnh mẹ con đói khát. Muốn cho mẹ cất gánh nặng, đã nhiều lần Tư xin làm phó nhỏ mấy hiệu thợ may và sơn guốc, nhưng họ đều từ chối vì dạo này hàng ế. Họ hứa đến tháng tám này sẽ gọi anh làm. Bất đắc dĩ anh phải đóng vai ăn bám.

     Tư nghĩ liên miên: Anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh ra anh mà săn sóc không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: Là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình. Tư thấy bứt rứt khó chịu. Những ý tưởng hỗn loạn ở trong óc. Anh thong thả nằm xuống. Mắt nhắm lại, muốn ngủ đi, để những tư tưởng hắc ám khỏi đến quấy nhiễu. Nhưng không sao ngủ được với cái dạ dày. [...]
      Trên nhà, ông Cả vùng thức dậy. Ông vươn vai, bẻ khục, vặn mình kêu răng rắc. Ông vừa ngáp vừa gọi:

     - Tư ơi?

     - Dạ.

     - Thoáng cái là lỉnh. Thoáng cái là lỉnh thôi.

     Tư gượng gạo đứng lên, lệt xệt bước lên trên nhà. Ông Cả vứt một hào ra bàn, dịu giọng:

     - Đi mua một hào phở?

     - Vâng.

     - Đem bát mà đi.

     - Vâng.

     Tư thất thểu lê bước. Tay bưng có bát phở mà mỏi rã rời. Khói bốc lên nghi ngút. Anh thèm quá. Trông những bánh tráng trắng phau mềm dẻo, ẩn hiện trong nước dùng váng sao, những miếng thịt bò mỏng tang xếp gọn ghẽ, những hành, mùi, hồ tiêu rắc lên trên, thơm ngào ngạt phả mãi vào mũi anh. Con tỳ, con vị như thức dậy, bụng sôi sùng sục, vần lên chuyển xuống. Nước bọt cứ ứa mãi ra, anh ao ước được một bát.

     Tư đặt bát phở lên bàn cho anh, rồi lặng lẽ ra ngoài thềm. Ông Cả vừa ăn vừa cắm cáu gắt:

     - Gớm! Phở! Ăn rẳng như đấm vào họng!

     Tư se sẽ nuốt nước bọt. Thật là mỉa mai. Ăn xong, buông đũa buông bát, ông Cả vội vã cắp cặp ra đi. Ông còn cay mấy hội bạch cược hôm qua.

     Ông Cả đi rồi. Tư cũng chẳng buồn ra đóng cửa. Anh định đem bát ra chậu ngâm, nhưng lại thôi, là vì anh thấy còn đến lưng bát nước dùng ăn thừa. Lúc khác ai còn giữ lại làm gì? Nhưng lúc này… Tư đưa bát phở lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Anh nếm một ngụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá mà được một bát cơm nguội trộn ăn thì phải biết! Nghĩ đến cơm nguội, anh lại nhớ đến một hôm, cũng đói như hôm nay. Thân, bạn chí thiết của anh, đến chơi nèo mãi anh về nhà. Rồi mời anh:

     - Nhà đi vắng cả, chỗ anh em với nhau, tôi nói thật: Anh ở đây ăn cơm nguội - cơm nguội thôi - với tôi cho vui nhé.

     Cái bữa cơm nguội với cà ấy sao mà ngon thế! Tư còn nhớ mãi, có lẽ suốt đời: Tư so sánh ông Cả với Thân. Nỗi căm hờn nổi dậy trong lòng. Hai mắt anh quắc lên một cách dữ dội. Anh nghiến răng ném mạnh "bát phở" ra sân. Tiếng bát vỡ làm cho lòng anh dịu. Anh bật cười thấy mình vô lý và thấy tiêng tiếc. Tư thấy mỏi rã rời. Toàn thân run lên. Anh nằm lả xuống.

     Chiều tàn đã lâu. Cảnh vật thẫm lại. Gió khua lá lao xao. Những lùm cây đen thẫm lắc lư trên nền trời sẫm đục. Thân, một tay ôm gói bọc giấy báo, một tay đẩy mạnh cánh cửa. Một tiếng rít rền trong yên lặng. Anh xăm xăm bước, nhớn nhác nhìn vào mấy gian nhà tối om. Miệng lẩm bẩm:

      - Quái sao nhà cửa để tối thế này!

     Thân im bặt vì biết mình nhỡ lời. Anh thong thả bước lên nhà. Đặt gói lên bàn, Tư vẫn nằm rũ trên tràng kỷ không biết bạn đến. Thân lay bạn:

     - Tư! Tư!

     Tư thều thào:

     - Thân đấy à?

     - Ừ, Tư ngủ à?

     Giọng Tư nhỏ đầy mệt nhọc:

     - Không... Thân vào tôi cũng biết, nhưng mệt... quá...

     Thân ái ngại nhìn bạn trong bóng tối. Đoạn anh nói rất nhẹ nhàng:

     - Tôi đem cho Tư ít hạt mít đây. Tư ăn đi.

     Tư cảm động quá. Nước mắt chảy ròng ròng, anh nghẹn ngào:

     - Thân tốt với tôi quá.

     - Ồ! Anh.

     Đôi bạn ngồi âm thầm trong bóng tối. Tiếng Tư nhai hạt mít trong im lặng. Tư chợt nghĩ đến mẹ, anh ngóc đầu bảo bạn:

     - Thân cất đi cho tôi một nửa nhé.

     Anh định tâm để dành cho mẹ, Thân ôn tồn:

     - Ừ, còn nhiều anh ạ.

     Tư lại nghĩ đến mình, đến tương lai. Một tương lai mờ mịt của đứa con vợ lẽ. Anh thở dài não ruột.

     - Gì thế anh?

     - Không.

     Hai người im lặng.

(Kim Lân, Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 33, 

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 475 - 479)​

0