Nhận xét về cuộc cách mạng tư sản Hà Lan
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Cải cách Minh Trị, hay Cách mạng Minh Trị, hay Minh Trị Duy tân, (明治維新 Meiji-ishin) là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến các thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị của Nhật Bản. Cuộc cách mạng Minh Trị diễn ra từ năm 1866 đến năm 1869, một thời kỳ 3 năm chuyển đổi thời kỳ hậu Giang Hộ (thường gọi là Hậu Tướng quân Tokugawa) và bắt đầu thời kỳ Minh Trị.
Nhận xét của mình là:
+ Là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới
+ Lật đổ ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
+ Mở ra thời đại mới, thời đại bùng nổ của các cuộc cách mạng tư sản.
+ Nhưng đều là cuộc cách mạng chưa triệt để
+ Chỉ có giai cấp tư sản được hưởng lợi còn nhân dân lao động thì không được hưởng.
:>Tick cho mình nhé<:
Nội chiến Anh (English Civil War, 1642–1651) là một loạt các xung đột giữa phe Nghị hội ("Viên Đầu đảng") và phe Bảo hoàng ("Kị Sĩ đảng") xoay quanh thể chế chính trị tại Anh và vấn đề tự do tôn giáo. Các cuộc chiến này thường được các sử gia chia làm ba giai đoạn:
- Nội chiến Anh lần thứ nhất (1642-1646), giữa phe Bảo hoàng Anh của vua Charles I với quốc hội dài hạn.
- Nội chiến Anh lần thứ nhì (1648-1649), giữa phe Bảo hoàng Anh của vua Charles I với quốc hội dài hạn.
- Nội chiến Anh lần thứ ba (1649-1651), giữa phe Bảo hoàng của vua Charles II và nhóm dân biểu còn lại.
Sau khi vua James I (1603-1625) qua đời vào năm 1625, Thái tử Charles lên nối ngôi, tức là vua Charles I.
Năm 1625, vua Charles cưới Henrietta Maria, con gái vua Henri IV của Pháp. Cuộc hôn nhân này không được quần thần và thần dân Anh tán tưởng vì Vương hậu Maria là một tín đồ Công giáo La Mã ngoan đạo, lại được nuôi dưỡng trong một chế độ quân chủ tuyệt đối. Về sau, sự ảnh hưởng của Maria đối với các chính sách của Charles khiến cho giữa ông và Quốc hội xảy ra tranh chấp.
Cũng như đối với vua James, vấn đề trọng đại được đặt ra là quốc vương Anh có thể là vị vua có quyền lực tuyệt đối như các vương triều châu Âu khác, hay các quyền làm luật và đánh thuế của nhà vua đều bị giới hạn bởi Quốc hội. Ngoài ra, còn có vấn đề tôn giáo nữa. Nhiều cận thần của vua Charles I theo Thanh giáo (Puritan) muốn huỷ bỏ một số lễ nghi của Công giáo Rôma và e ngại nhà vua sẽ phục hồi Công giáo (Catholic). Như vậy, giữa nhà vua và quốc hội có sự bất tín nhiệm lẫn nhau. Do cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha và Pháp, vua Charles rất cần tiền chi phí chiến tranh nhưng quốc hội lại không chịu bỏ phiếu phê chuẩn số tiền mà ông cần đến. Vua Charles đành phải tiết kiệm tiền bằng cách cho quân sĩ sống nhờ nhà dân và buộc các nhà giàu phải cho triều đình vay tiền, những người từ chối sẽ bị tống giam vào ngục. Hành động này của vua Charles I và các quyết định bất thường khác đã khiến cho các vị lãnh đạo quốc hội Anh phản đối, vị họ cho rằng các chính sách này vi phạm đến các tự do hiến định của nhân dân. Sự tranh chấp lên tới mức độ căng thẳng khiến cho nhà vua phải giải tán quốc hội hai lần.
Năm 1628, vua Charles triệu tập quốc hội thứ ba và sự thù nghịch giữa nhà vua với quốc hội càng tăng thêm rõ ràng. Quốc hội thứ ba đã xác nhận lời trách cứ của họ đối với các yêu sách bất hợp pháp của nhà vua, buộc ông phải nhận đơn thỉnh nguyện trong đó liệt kê "các quyền lợi khác nhau và các tự do của thần dân". Đơn thỉnh nguyện về quyền lợi này đề nghị huỷ bỏ việc bắt buộc vay tiền và đóng quân tại nhà dân, đồng thời cũng xác nhận rằng quốc hội có quyền giới hạn các quyền lực của nhà vua. Để có tiền, vua Charles I đã ký nhận đơn thỉnh nguyện rồi về sau, do cảm thấy bị mất thể diện, ông đã giải tán quốc hội thứ ba năm 1629 và trong vòng 11 năm tiếp theo, ông trị vì mà không triệu tập quốc hội nữa. Cũng trong thời gian này, ông không thèm đếm xỉa tới các lời thỉnh cầu và với một số cận thần. Ông còn nghĩ đền nhiều cách gây quỹ làm mất lòng dân, chẳng hạn như để trang bị một hạm đội, nhà vua đòi thần dân nộp "tiền đóng tàu" (ship money) và coi đây không phải là một thứ thuế. Thần dân Anh đã phản kháng việc này và trong số đó có ông John Hampden đã từ chối nộp 20 bảng Anh và đã táo bạo đưa vấn đề ra toà án để tranh cãi.
Năm 1633, William Laud, Tổng Giám mục Canterbury, theo sự ủng hộ của vua Charles I, muốn áp dụng Anh giáo Thượng giáo hội vào toàn thể nước Anh và Scotland. Việc tổng giám mục Laud bắt dùng Sách Cầu nguyện Chung (Book of Common Prayer) tại các nhà thờ Scotland đã khiến cho dân Scotland nổi lên chống đối. Do không thể dẹp loạn, vua Charles I phải triệu tập một quốc hội vào năm 1640 nhưng lại hạ lệnh giải tán chỉ 5 ngày sau đó. Đây là quốc hội Ngắn hạn (the Short Parliament). Nhưng sự bất lực của nhà vua đã khiến cho một quốc hội thành lập cùng năm ấy quốc hội mới thông qua một nghị quyết kể từ này, quốc hội sẽ không bị giải tán nếu không có sự đồng ý của chính họ. Người đương thời đã gọi đây là Quốc hội Dài hạn (The Long Parliament).
Ngay sau đó quốc hội Dài hạn đã tống giam Thomas Wentworth, Bá tước Strafford thứ nhất cùng với Tổng Giám mục Laud vào Tháp Luân Đôn (The Tower of London). Năm 1641, Bá tước Strafford bị hành quyết và Tổng Giám mục Laud phải chịu chung số phận vào 4 năm sau. Đồng thời, quốc hội Anh phổ biến tới toàn dân "Bài khiển trách lớn lao" (the Grand Remonstrace), trong đó liệt kê lỗi lầm của nhà vua và đòi hỏi các bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước quốc hội, đòi hỏi nhà vua không được đánh thuế dân chúng nếu không có sự đồng ý của quốc hội. Vua Charles I lúc đấy đã không muốn từ bỏ một uy quyền nào. Năm 1642, ông đã nổi giận, dẫn một toán binh sĩ trang bị đầy đủ khí giới, xông vào Toà Nhà Quốc hội để bắt 5 dân biểu hàng đầu, thường tỏ ra chống đối Charles I. Nhưng 5 người này đã được báo trước và trốn chạy. Hành động của Charles đã nhanh chóng gây ra cuộc nội chiến, và ông đã bỏ chạy lên mạn bắc nước Anh chuẩn bị lực lượng chống lại Quốc hội và nhân dân.
Diễn biếnCả Vương thất và quốc hội đều lo tập trung quân đội. Có một nửa nhân viên quốc hội ủng hộ Vương thất, được gọi là các "kị binh" (cavaliers), gồm các nhà quý tộc và phần lớn các, trong khi những người gọi là các "kẻ đầu tròn" (roundheads) vì họ cắt tóc thật sát. Các "kẻ đầu tròn" khi đó đã kiểm soát được thành phố Luân Đôn, điều khiển được hải quân và có quyền đánh thuế để tăng ngân quỹ. Tháng 8 năm 1642, cuộc nội chiến bùng nổ, phe quốc hội hay các "kẻ đầu tròn" đã sớm tìm ra một vị chỉ huy quân sự có tài, đó là ông Oliver Cromwell - một người Thanh giáo.
Oliver CromwellTháng 7 năm 1644, trong trận chiến Marston Moor gần xứ York, Vương thân Ruper đã đưa một đạo quân bảo hoàng đánh vào cánh phải của quân quốc hội thì bất ngờ, quân kị binh của Cromwell từ bên trái đánh sang và giành chiến thắng, khiến cho Vương thân Ruper phải gọi đội kị binh của Cromwell là đạo quân "sườn sắt" (the Ironsides).
Cuộc nội chiến ngày càng tiếp diễn, vai trò của Cromwell ngày càng trở nên quan trọng. Cromwell đã tổ chức lại quân đội theo kiểu mẫu đạo quân "sườn sắt" và đại phá Vương quân trong trận chiến cuối cùng Naseby vào tháng 6 năm 1645. Đầu năm sau (1646), vua Charles phải chạy sang Scotland nhưng bị dân xứ này bắt được và giao cho nhân dân Anh.
Nước Anh thời kỳ này được trị vì bởi các lãnh đạo quân đội và nhóm dân biểu "còn lại" (the Rump) của quốc hội năm 1640, là những người rất trung thành với lý tưởng Thanh giáo. Các nhà lãnh đạo này đều cho rằng Charles không đáng tin cậy và độc đoán, cần phải trừ khử. Ngày 20 tháng 1 năm 1649, trước sức ép của nhân dân và quân đội,Charles bị đưa ra xét xử vì tội "phản bội". Ngày 30 tháng 1 cùng năm nhà vua bị kết án là "bạo chúa, phản bội, sát nhân và là kẻ thù của nhân dân" và bị xử tử trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng.
Oliver Cromwell sau đó lên nắm quyền, thiết lập chế độ độc tài khiến người dân oán hận. Tới khi Oliver Cromwell qua đời, nước Anh đã chán ngán với sự cai trị của Thanh giáo, nhiều người muốn dàn xếp những mối bất hoà cũ và khôi phục lại chế độ quân chủ, vua Charles II được mời quay trở lại triều đình năm 1660 nhưng vẫn muốn giữ những thành quả của cách mạng. Khi ấy Hiến pháp được đưa ra với quy định rằng Nhà vua và Nghị viện sẽ cùng cai trị, dù trên thực tế mãi tới thế kỷ sau quy định này mới được thực sự áp dụng trong thực tế. Với việc thành lập Hội Hoàng gia, khoa học và nghệ thuật được khuyến khích phát triển. Năm 1688, chế độ quân chủ lập hiến chính thức được xác lập, với Vương công xứ Orange là William III nắm quyền, nhưng quyền lợi lại nằm trong tay tư sản và quý tộc mới.
Ý nghĩaLực lượng cách mạng chiến thắng trong cuộc nội chiến tại Anh nhờ được quần chúng ủng hộ và tham gia đấu tranh. Cách mạng dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn, thể hiện sự thắng thế của giai cấp tư sản và quý tộc đối với nhà vua, báo hiệu sự suy vong của chế độ quân chủ chuyên chế và dần được thay thế bởi chế độ quân chủ lập hiến, một hình thức nhà nước dân chủ. Sau cuộc cách mạng này nhà vua phải chia sẻ quyền lực với Quốc hội và chịu sự chế định của Hiến pháp.
Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Mười Nga:
* Đối với nước Nga:
- Làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước và số phận của hàng triệu con người ở Nga.
- Mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử nước Nga: giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc được giải phóng khỏi mọi ách áp bức, bóc lột đứng lên làm chủ đất nước và vận mệnh của mình.
* Đối với thế giới:
- Làm thay đổi cục diện thế giới.
- Cổ vũ và để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cách mạng thế giới.
Thực dân pháp xâm lược Việt Nam vào năm bao nhiêu?
A. 1858
B. 1847
C. 1843
tham khảo * Về kinh tế:
- Tích cực:
+ Cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền công nghiệp thuộc địa mang yếu tố thực dân
+ Thành thị theo hướng hiện đại ra đời, bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế cũ bị phá vỡ.
- Tiêu cực: Một trong những mục tiêu của công cuộc khai thác là vơ vét sức người, sức của nhân dân thuộc địa. Do vậy:
+ Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt
+ Nông nghiệp lạc hậu, dậm chân tại chỗ
+ Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, mất cân đối, thiếu hẳn công nghiệp nặng.
=> Nền kinh tế Việt Nam cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu và phụ thuộc vào nền kinh tế chính quốc.
* Về xã hội: Bên cạnh các giai cấp cũ không ngừng bị phân hoá, xã hội Việt Nam đã xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới:
- Giai cấp địa chủ phong kiến: đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.
- Giai cấp nông dân: có số lượng đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề. Họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Tầng lớp tư sản: có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn,... bị kìm hãm, chèn ép, chưa có tinh thần cách mạng.
- Tiểu tư sản thành thị: bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do. Đó là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm giác ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.
- Công nhân: xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp,… đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.
Khởi nghĩa Yên Thế có những đặc điểm khác so với những cuộc khởi nghĩa cùng thời:
- Mục tiêu chiến đấu không phải là để khôi phục chế độ phong kiến, bảo vệ ngôi vua như các cuộc khởi nghĩa cùng thời (khởi nghĩa Yên Thế không thuộc phong trào Cần vương).
- Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa không phải là các văn thân, sĩ phu mà là những người xuất thân từ nông dân với những phẩm chất đặc biệt (tiêu biểu là Hoàng Hoa Thám): căm thù đế quốc, phong kiến, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo : trung thành với quyền lợi của những người cùng cảnh ngộ, hết sức thương yêu nghĩa quân.
- Lực lượng tham gia khởi nghĩa đều là những người nông dân cần cù, chất phác, yêu cuộc sống.
- Về địa bàn : khởi nghĩa Yên Thế nổ ra ở vùng trung du Bắc Kì.
- Về cách đánh : nghĩa quân Yên Thế có lối đánh linh hoạt, cơ động...
- Về thời gian : cuộc khởi nghĩa tồn tại dai dẳng suốt 30 năm, gây cho địch nhiều tổn thất.
- Khởi nghĩa Yên Thế tiêu biểu cho tinh thần quật khởi của nông dân, có tác dụng làm chậm quá trình xâm lược, bình định vùng trung du và miền núi phía Bắc của thực dân Pháp.
Khởi nghĩa Yên Thế có những đặc điểm khác so với những cuộc khởi nghĩa cùng thời:
- Mục tiêu chiến đấu không phải là để khôi phục chế độ phong kiến, bảo vệ ngôi vua như các cuộc khởi nghĩa cùng thời (khởi nghĩa Yên Thế không thuộc phong trào Cần vương).
- Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa không phải là các văn thân, sĩ phu mà là những người xuất thân từ nông dân với những phẩm chất đặc biệt (tiêu biểu là Hoàng Hoa Thám): căm thù đế quốc, phong kiến, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo : trung thành với quyền lợi của những người cùng cảnh ngộ, hết sức thương yêu nghĩa quân.
- Lực lượng tham gia khởi nghĩa đều là những người nông dân cần cù, chất phác, yêu cuộc sống.
- Về địa bàn : khởi nghĩa Yên Thế nổ ra ở vùng trung du Bắc Kì.
- Về cách đánh : nghĩa quân Yên Thế có lối đánh linh hoạt, cơ động...
Ngày 10/12/1861 nghĩa quân do Nguyễn Trung Trực chỉ huy làm nên một chiến công lừng lẫy, đánh một trận mưu trí và táo bạo, đốt cháy chiến hạm Hy Vọng ( Espérence ) của thực dân Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông ( hay còn gọi là sông Nhật Tảo ), diệt toàn bộ quân địch trên tàu gồm 17 lính Pháp và 20 tên Việt gian.
Ngày 10/12/1861 nghĩa quân do Nguyễn Trung Trực chỉ huy làm nên một chiến công lừng lẫy, đánh một trận mưu trí và táo bạo, đốt cháy chiến hạm Hy Vọng ( Espérence ) của thực dân Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông ( hay còn gọi là sông Nhật Tảo ), diệt toàn bộ quân địch trên tàu gồm 17 lính Pháp và 20 tên Việt gian.
Cách mạng Hà Lan (1566/1568 – 1648)[2] là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Vùng đất thấp chống lại sự cai trị của Hitler
. Đây cũng là dấu mốc đánh dấu sự chuyển giao lịch sử giữa thời kỳ Trung cổ và Cận đại.
Cách mạng Hà Lan (1566/1568 – 1648)[2] là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Vùng đất thấp chống lại sự cai trị của Hitler
. Đây cũng là dấu mốc đánh dấu sự chuyển giao lịch sử giữa thời kỳ Trung cổ và Cận đại.