Miêu tả về chú bé " Lượm " trong đó có sử dụng
so sánh, nhân hóa, ẩn dụ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bài làm
Một đời người - một dòng sông...
Mấy ai làm kẻ đứng trông bến bờ,
"Muốn qua sông phải lụy đò"
Đường đời muôn bước cậy nhờ người đưa ...
Tháng năm dầu dãi nắng mưa,
Con đò trí thức thầy đưa bao người.
Qua sông gửi lại nụ cười
Tình yêu xin tặng người thầy kính thương.
Con đò mộc - mái đầu sương
Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày,
Khúc sông ấy vẫn còn đây
Thầy đưa tiếp những đò đầy qua sông...
- Tác giả: Thảo Nguyên
# Chúc bạn học tốt #
Bạn ơi của tác giả Thảo Nguyên nhé
Đúng thì k cho mk nhé thank
Ẩn dụ là biện pháp tu từ dùng tên gọi của sự vật/hiện tượng này bằng tên của sự vật/hiện tượng khác có nét tương đồng giữa 2 đối tượng về mặt nào đó (như tính chất, trạng thái, màu sắc, …) nhằm tăng sức gợi hình và gợi cảm cho sự diễn đạt.
Có tổng cộng 4 kiểu ẩn dụ mà các bạn thường gặp đó là:
1.Ẩn dụ hình thức (tức là tương đồng về hình thức)
Ví dụ:
Về thăm quê Bác làng Sen
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng
Tương đồng về hình thức là màu hồng của lửa và màu đỏ của hoa râm bụt.
2.Ẩn dụ cách thức (tức là tương đồng về cách thức)
Ví dụ:
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Tương đồng về cách thức là ăn quả tương đồng với hưởng thành quả lao động, còn trồng cây tương đồng với công lao người tạo ra thành quả.
3.Ẩn dụ phẩm chất (tức là tương đồng về phẩm chất)
Ví dụ:
Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
Tượng đồng về phẩm chất là người cha tức đang ẩn dụ Bác Hồ, Bác đang chăm lo giấc ngủ cho các chiến sĩ như những người cha ruột đang chăm sóc cho các đứa con yêu của minh.
4.Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (tức là chuyển từ cảm giác này sang cảm giác khác hoặc cảm nhận bằng giác quan khác).
Ví dụ:
Giọng nói của chị ấy rất ngọt ngào
Chuyển cảm giác từ thính giác sang vị giác. Từ giọng nói nghe bằng tai qua đến ngọt ngào cảm nhận bằng miệng.
Tôi giật sững người. Chẳng hiểu sai tôi phải bám chặt lấy tay mẹ. Thoạt tiên là sự ngỡ ngàng, rồi đến hãnh diện, sau đó là xấu hổ. Dưới mắt em tôi, tôi hoàn hảo đến thế kia ư? Tôi nhìn như thôi miên vào dòng chữ đề trên bức tranh “Anh trai tôi”. Vậy mà dưới mắt tôi thì…
Tôi không trả lời mẹ vì tôi muốn khóc quá. Bởi vì nếu nói được với mẹ, tôi sẽ nói rằng: “Không phải con đâu.
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”
Thật vậy, câu chuyện “Bức tranh của em gái tôi” của tác giả Tạ Duy Anh kể về người anh và cô em gái có tài hội họa đã thể hiện rõ diều đó. Câu chuyện đã để lại trong em một ấn tượng sâu sắc về tấm lòng nhân hậu cô em gái Kiều Phương dã giúp cho người anh nhận ra phần hạn chế của chính mình.
Kiều Phương tuy chỉ mới sáu, bảy tuổi nhưng đã sớm bộc lộ tài năng hội họa.Cô sống trong một gia đình hạnh phúc. Do lúc nào mặt cũng bị bôi bẩn bởi chính mình nên cô được anh đặt cho một biệt danh rất đáng yêu là “Mèo”. Mèo rất thích vẽ. Cô bé đã tự trộn màu bằng các nguyên liệu tự nhiên có sẵn trong nhà..Mèo có dáng người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn.Những bộ trang phục thường ngày của cô tuy giản dị nhưng lúc nào cũng bị bôi bẩn bởi những vết mực, vết nhọ nồi.Mái tóc đen láy, óng mượt của cô được tết bím sang hai bên trông càng thêm đáng yêu.Cô có làn da hồng hào nhưng lúc nào cũng bị bôi bẩn. Kiều Phương có khuôn mặt tròn và bầu bĩnh. Vầng trán cao, rộng. Đôi mắt đen láy, sáng ngời,lộ rõ vẻ thông minh của Kiều Phương quan sát mọi vật rất tỉ mỉ để đưa vào trong bức tranh của mình thật chính xác, rõ ràng. Kiều Phương có đôi má phúng phính, ửng hồng. Nụ cười tươi dường như lúc nào cũng hiện diện trên khuôn mặt cô. Nhưng mỗi khi bị người lớn quát thì nụ cười ấy biến mất. Miệng Mèo dẫu ra, mặt xịu xuống, càng mắng càng cứ xáp lại gần trông vừa ngộ vừa đáng yêu khiến không ai giận lâu được. Kiều Phương có đôi tay rất khéo trong việc đưa con mèo, cái máng lợn sứt nẻ,…vào trong tranh một cách hoàn hảo nhất. Đôi tay ấy lúc nào cũng bị dính bẩn vì phải nhào bột, thử màu để tạo ra một loại màu đặc biệt do cô tự chế.Khi vẽ tranh, Kiều Phương quan sát xung quanh,chắc chắn là không có ai,cô trải giấy ra sàn,lấy ra các hộp màu do cô tự chế và một cái cọ vẽ. Mèo nằm sấp xuống đất, hai chân đánh qua đánh lại. Chú mèo con trong nhà ngồi cạnh bên.Kiều Phương quan sát thật kĩ chú mèo rồi cầm bút lên vẽ những nét đầu tiên bằng mực đen Đôi mắt của Kiều Phương hết quan sát con mèo lại chăm chú vào bức tranh. Cô đẩy tay nhẹ nhàng cũng tạo ra những đường nét mới lạ, uyển chuyển.Những đường nét to khỏe khiến con mèo khi vào tranh trông như co hổ nhưng vẫn mang vẻ ngộ nghĩnh riêng của con mèo. Khi quét nhà, đôi tay búp măng, nhỏ nhắn ấy cầm chổi một cách e thẹn, không chắc chắn lắm, điều khiển chổi qua lại như mẹ cô vẫn thường làm. Cũng như lúc làm những việc nhà khác, Kiều Phương lúc nào cũng vừa hát, vừa bước đi theo nhịp điệu trông rất vui, đầy sức sống. Đôi chân nhẹn nhàng, uyển chuyển xoay theo từ nốt nhạc. Cô bé Kiều Phương có một bí mật nhỏ mà ngoài người anh trai ra không ai biết cả. Đó là việc cô trộn màu từ các nguyên liệu có sẵn trong nhà để vẻ. Cô cạo trắng các *** son nồi một cách khéo léo, nhào lại, quệt lên tay xem màu đã vừa chưa rồi cho vào hộp. Sau đó cô giấu những hộp màu, rồi đi làm việc nhà như chưa có chuyện gì xảy ra. Những bức tranh của Kiều Phương rất đẹp và có hồn nhờ những màu sắc thiên nhiên đặc biệt. Nhưng rồi, bí mật cũng như tài năng của Kiều Phương bị chú Tiến Lê và những người khác trong gia dình phát hiện. Từ đó, Kiều Phương được ba mẹ yêu thương hơn và được mua cho những hộp màu mới. Tuy vậy nhưng khuôn mặt,quần áo, tay chân của cô vẫn lem nhem đầy vết nhọ nồi như xưa. Cũng từ đó, người anh cảm thấy mình bị xanh lánh, tự ti và trở nên xa lánh Mèo hơn. Nhưng càng xa lánh thì cô bé Mèo càng xáp lại gần. Khi đươc mời tham dự trại thi vẽ quốc tế, Kiều Phương đã quyết định vẽ chính người anh của mình và bức tranh đó đã đạt giải nhất. Kiều Phưng rất vui. Khi về đến nhà, cô đã ôm cổ anh và bằng một giọng nhỏ nhẹ, đầy tình cảm, cô thì thầm vào tai anh “Em muốn cả anh cùng đi nhận giải”. Ngày hôm ấy, Kiều Phương ăn mặc thật sạch sẽ và lịch sự. Hai bím tóc được mẹ tết gọn gàng và cài thêm cái nơ ở một bên đầu. Khác hoàn toàn mọi ngày, khuôn mặt cũng như chiếc đầm màu hồng của Kiều Phương không một vết bẩn nhọ nồi. Kiều Phương tò mò, hồi hộp khi nhìn anh mình đang ngỡ ngàng quan sát bức tranh giải nhất đề “Anh trai tôi” được đóng khung, lồng kính. Nụ cười tươi rói hiện trên khuôn mặt Kiều Phương khi anh cô hãnh diện về bức tranh và nụ cười đó cũng theo cô suốt cho đến khi buổi lễ kết thúc. Tấm lòng nhân hậu của Kiều Phương đã chiến thắng con rắn ghen ti của người anh
Kiều Phương đã để lại trong em một ấn tượng sâu sắc về sự hồn nhiên đáng yêu của cô Nhờ tấm lòng nhân hậu, vị tha của mình mà cô bé Mèo đã giúp người anh nhận ra phần hạn chế của chính bản thân mình cũng như hàn gắn lại tình anh em ngày nào. Em cảm thấy bản thân mình còn thiếu sót và chưa hoàn thiện vì đôi khi vẫn hay giận dỗi, ganh tị với người khác. Kiều Phương sẽ mãi là tấm gương sáng để em noi theo, hoàn thiện lại phần hạn chế của mình.
BÀI LÀM
Sân trường là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động học đường của chúng em. Sân trường rực rỡ cờ hoa ngày khai giảng, đẹp lung linh trong hội trại mừng xuân, yên tĩnh im lìm trong những ngày hè.Sân trường rất quen mà luôn luôn sống động trong từng thời điểm. Trong bao cảnh sinh hoạt của nhà trường, cảnh sân trường trước buổi học có nét hoạt náo riêng biệt, có quy củ nền nếp và rất đáng yêu.
Mỗi buổi học, cổng trường được mở rộng từ sáu giờ sáng. Từ xa, bảng tên trường Tiểu học Kim Đồng màu xanh dương còn chìm trong màn sương trắng lãng đãng. Ba dãy phòng học đã được mở cửa nhưng im lìm chờ đợi chúng em. Lác đác, học sinh bắt đầu đến trường. Nắng sớm chiếu lên các vòm cây, chim chóc chuyền cành lích rích, rồi bayvù ra, hót ríu ran. Trên sân trường, lá bàng, lá phượng rải rác khắp nơi. Cũng như lớp học, văn phòng, phòng Hội đồng giáo viên, phòng Ban giám hiệu đã được mởcửa. Bác lao công đang dọn dẹp các phòng này. Trước cửa văn phòng, cột cờcao chót vót, lá cờ đỏ sao vàng bay nhè nhẹ trong gió sớm. Những học sinh đến sớm hầu hết là những bạn có ca trực nhật. Liền sau khi đến lớp, các bạn mở rộng các cửa sổ lớp học và bắt đầu quét lớp, quét sân trường. Tiếng chổi xoèn xoẹt lẫn tiếng nói chuyện rì rầm, tiếng gọi nhau í ới của chúng em như một bản nhạc đủ cung bậc trầm bổng. Gần như đồng loạt, khi trống hồi đổdài vang lên, sân trường và lớp học sạch bóng. Lúc này, học sinh đã đông đảo, các thầy cô cũng đã đến trường. Trên hành lang lớp học, những tà áo dài nhiều màu sắc của cô giáo điểm xuyết trên nền áo đồng phục trắng của chúng em tạo nên một bức tranh hài hoà màu sắc. Học sinh tụm năm, tụm ba trò chuyện, có bạn còn chơi đá cầu dù biết là chỉ còn năm phút nữa là đến giờ truy bài trước khi vào lớp. Trên hành lang, đội Sao Đỏ đang kiểm tra nền nếp các lớp. Một số bạn ngồi dưới gốc cây bàng và cạnh các bồn hoa ăn nốt phần quà sáng. Sân trường sáng bừng nắng mai, ồn ã tiếng trò chuyện, hỏi bài của các bạn. Ba tiếng trống đanh gọn vang lên. Học sinh nhanh nhẹn tập trung theo tổ, ngồi từng tốp trật tự trên hành lang lớp học. Học sinh bắt đầu truy bài. Sân trường im lặng, chỉ còn nghe tiếng thì thầm kiểm tra bài của học sinh. Mặt trời lên cao thêm, chút nữa, rọi những tia nắng ấm áp qua kẽ lá, in lên nền đất những bóng sáng nhảy nhót, nhấp nháy theo cành lá bay bay trong gió sớm. Hai cánh cổng lớn của trường đã khép lại. Bác bảo vệ trực ở cổng như một anh lính cận vệ cần mẫn, nghiêm khắc. Mười lăm phút ôn bài trôi qua nghiêm túc, một tiếng trống vang lên gọn lỏn. Học sinh xếp hàng vào lớp. Mỗi lớp xếp bốn hàng thẳng tắp, lần lượt đi hàng một vào lớp. Từ phòng giáo viên, các thầy cô giáo toảra, đi về các lớp. Toàn trường bắt đầu buổi học một cách trật tự, sôi nổi. Sân trường trở lại yên ắng, chỉ nghe tiếng cành lá lao xao trò chuyện cùng gió. Tiếng chim hót thưa hơn, chim đã rời tố bay đi kiếm mồi. Vài cánh bướm dập dờn bên các đoá hoa. Thoảng trong gió mùi hoa sữa, hoa ngâu lan tỏa. Toàn trường vang vang tiếng thầy cô giảng bài, tiếng lật vở loạt xoạt khe khẽ. Không gian yên tĩnh trong lành đưa chúng em đến chân trời kiến thức, hứa hẹn một tương lai tươi sáng mai sau.
Em yêu sao mái trường Tiểu học có thầy cô và bè bạn thân quen. Yêu trường, em thêm yêu từng buổi học, từng góc sân trường nhộnnhịp, tươi vui. Nền nếp của trường em trước buổi học là bài học kỉ luật nghiêm khắc rèn giũa chúng em thành những công dân gương mẫu mai sau này.
Cây tre là biểu tượng cho con người, dân tộc Việt Nam. Viết về vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của cây tre chúng ta có thể kể đến bài Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy và không thể không nhắc đến tác phẩm Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới. Tác phẩm được viết làm lời bình cho một bộ phim điện ảnh Ba Lan. Thông qua hình ảnh cây tre, tác phẩm đã cho thấy vẻ đẹp của con người, đất nước Việt Nam, đồng thời ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta.
Ngay từ những câu văn mở đầu tác giả đã khẳng định tre là người "bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam" . Câu văn như một lời khẳng định chắc nịch về mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, lâu bền của tre với con người. Để làm nổi bật vai trò, ý nghĩa của tre, tác giả đã đặt nó trong muôn ngàn cây cối khác nhau, nhưng tre luôn giữa một vị trí đặc biệt quan trọng: "Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa" . Cũng bởi vậy mà tre có mặt ở khắp mọi nơi: "Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi,... đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn" . Câu văn nhịp nhàng kết hợp với biện pháp liệt kê đã cho thấy sự thân thuộc, gần gũi của tre với đời sống con người.
Tiếp ngay sau đó, Thép Mới khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất của tre: mọc thẳng, ở đâu tre cũng xanh tốt, dáng tre mộc mạc, màu tre nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc, ... được diễn đạt bằng lời văn nhịp nhàng, cân đối tựa như một lời hát. Và vẻ đẹp, khí chất của tre được tác giả so sánh: "Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người" . Câu văn như một lời ngầm khẳng định cây tre chính là biểu tượng cho con người Việt Nam, những vẻ đẹp, khí chất của tre cũng chính là phẩm chất cao quý của dân tộc ta.
Ngay từ phần mở đầu của bài viết, Thép Mới đã khẳng định sự gắn bó khăng khít và bền chặt của tre với người. Để minh chứng cho nhận định, ông đã sử dụng hàng loạt các dẫn chứng khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề đó.
Không chỉ mang những phẩm chất đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam, tre còn gắn liền với đời sống dân tộc Việt. Tác giả bắt đầu sự gắn bó đó bằng việc trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: "Bóng tre trùm mát rượi" , đây là cầu nối, khơi gợi sự gắn bó khăng khít giữa người và tre. Tre bao bọc, che chở con người, dưới bóng tre xanh dân ta vỡ ruộng, khai hoang, làm ăn sinh sống. Điệp ngữ "bóng tre" "dưới bóng tre" được điệp đi điệp lại càng khẳng định hơn nữa sự gắn bó thủy chung của tre với con người. Tre cứ thế gắn bó trong lao động, trong đời sống văn hóa, tâm linh của dân tộc Việt. Không chỉ vậy, tre còn gắn bó với người từ thuở lọt lòng với chiếc nôi tre cùng lời ru ngọt ngào của bà của mẹ, những năm tháng tuổi thơ cây sáo với nhạc điệu du dương trầm bổng hay bộ chắt bằng tre làm bạn, tuổi già lấy điếu thuốc lào làm vui, và khi nhắm mắt xuôi tay tre cũng ở bên cạnh con người.
Chưa dừng lại ở đó, những năm tháng chiến tranh gian nan, ác liệt tre cũng là đồng chí, người bạn đồng hành của nhân dân Việt Nam. Cảm hứng chính của đoạn văn được khơi dậy từ hình ảnh: "Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất" một mặt tô đậm đặc điểm của tre nhưng đằng sau đó là lời ca ngợi ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Trước mưa bom, bão đạn của kẻ thù, cả tre và người không chịu khuất phục, tre giúp sức người: gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Trong đoạn văn tác giả đã sử dụng hàng loạt biện pháp nhân hóa: tre là đồng chí, tre giữ làng, tre hi sinh,... vừa tôn vinh giá trị của tre vừa làm sống dậy những năm tháng chiến tranh ác liệt mà hào hùng của dân tộc.
Kết lại bài viết, là hình ảnh tre của hiện tại, khi cuộc sống con người đã trở nên hiện đại hơn, sắt thép xi măng đã dần thay thế cho tre. Nhưng không vì thế mà tre mất đi vị thế của mình. Tre vẫn xuất hiện trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi, được tác giả diễn đạt thật tinh tế qua hình ảnh "măng mọc" , tiếng sáo diều vi vút,... Lời kết vút lên như một lần nữa ca ngợi sự gắn bó thủy chung, son sắt của tre với con người.
Bài kí sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất thơ với nhịp điệu phong phú, biến hóa linh hoạt, phù hợp với nội dung bài viết. Hệ thống điệp từ, điệp ngữ, chia làm nhiều câu văn ngắn tạo nên không khí sục sôi, hào hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Không chỉ vậy, góp phần tạo nên sự thành công cho văn bản còn phải kể đến những lời bình giàu hình ảnh, gợi ra khung cảnh làng quê êm đềm. Giọng điệu dịu dàng kết hợp với các câu văn trữ tình (ca dao, câu thơ) hòa quyện với nhau tựa như một khúc hát ru tha thiết. Tất cả đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Với những chi tiết, hình ảnh được chọn lọc kĩ càng, giọng điệu tha thiết tác giả đã khẳng định sự gắn bó, thủy chung của cây tre với đời sống người dân Việt Nam. Cây tre với những phẩm chất tốt đẹp quý báu chính là biểu tượng của đất nước, dân tộc Việt Nam.
Tuỳ bút Cây tre Việt Nam được nhà báo, nhà văn Thép Mới viết vào năm 1956, để thuyết minh cho bộ phim Cây tre Việt Nam của một số nhà điện ảnh Ba Lan. Cảm hứng tự hào dạt dào, bút pháp tài hoa đã tạo nên chất thơ trữ tình của áng văn xuôi này.
Mở bài là một câu văn 18 chữ, Thép Mới giới thiệu cây tre trong tâm hồn nhân dân ta, nó là người bạn thân gần gũi thân thiết yêu thương. Câu văn đầy ấn tượng: Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam.
Phần thứ hai, tác giả nói đến cây tre trong đời sống vật chất và tinh thần, trong sản xuất, trong tâm hồn, trong chiến đấu của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam qua trường kỳ lịch sử. ý tưởng đẹp, giàu có, cách diễn đạt và giọng văn biến hoá, hấp dẫn, đã tạo cho tre có một vị trí đặc biệt trong mỗi chúng ta.
Nước ta thuộc vùng nhiệt đới, chan hoà ánh nắng, cây cỏ tốt tươi xanh muôn ngàn cây lả khác nhau. Tác giả so sánh để ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người: Cây nào củng đẹp, cây nào củng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Tre có mặt khắp mọi miền đất nước: Đồng Nai, Việt Bắc, Điện Biên Phủ, là luỹ tre thân mật làng tôi. Tre được nhân hoá, trở nên gần gũi yêu thương: đâu đâu ta củng có nứa tre làm bạn.
Họ hàng nhà tre thật đông đúc: tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng lại có một điểm tương đồng, đó là cùng một mầm non măng mọc thẳng. Một phát hiện tinh tế, ý vị. Tre có một sức sống vô cùng mạnh mẽ vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. 15 năm sau, nhà thơ Nguyễn Duy cũng có những vần thơ xúc động về sức sống của cây tre:
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu.
(Tre Việt Nam)
Nhìn dáng tre, màu tre, sự sinh sôi nảy nở của tre, nhà văn phát hiện ra bao vẻ đẹp riêng của tre như mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre được nhân hoá trở thành một biểu tượng sáng giá: Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người. Phẩm chất của tre cũng là phẩm chất của con người Việt Nam xưa nay.
Thép Mới trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: Bóng tre trùm mát rượi để từ đó nói lên vẻ đẹp của luỹ tre làng quê, một vẻ đẹp êm đềm của xứ sở: Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Tre là vẻ đẹp của cảnh sắc làng quê, là vẻ đẹp của nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nếp sống lao động cần cù và cuộc sống yên vui êm đềm của nhân dân ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Các từ ngữ, hình ảnh: bóng tre, dưới bóng tre của ngàn xưa, dưới bóng tre xanh,... được điệp lại, láy lại đã tạo nên giọng văn nhẹ nhàng mênh mang biểu cảm:
Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoảng mái đình, mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu dời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Màu xanh của tre cũng là màu tâm hồn, màu thời gian, màu sắc của nền văn hoá, màu chung thuỷ.
Cánh tay là hình ảnh hoán dụ ca ngợi cây tre là người bạn cần cù trong lao động của nhà nông, từng chia ngọt sẻ bùi, từng một nắng hai sương với bà con dân cày Việu Nam:
Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh răm.
Nói về cối xay tre thủ công Thép Mới gợi nhớ một thời gian khổ. Câu văn xuôi được cắt thành những vế ngắn 3, 4 chữ, có vần, nhằm tạo ra một trường liên tưởng về nền kinh tế lạc hậu, đời sống thiếu thốn của nhân dân ta sau một thế kỷ bị thực dân thống trị: Cối xay tre / nặng nề quay từ, nghìn đời nay / xay nắm thóc.
Tre được nhân hoá: Tre ăn ở với người, tre ... giúp người..., tre vẫn phải còn vất vả mãi với người, tre là người nhà,... Từ một vật thể, cây tre trở nên có tâm hồn, có linh hồn gắn bó với cuộc đời vất vả, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta trong dòng chảy thời gian. Tre gắn bó với tâm tình của nhân dân. Lạt giang mềm để gói bánh chưng; sự hiện hữu của nó trong sính lễ như "khít chặt" những mối tình quê thắm thiết; thuỷ chung. Cách viết của Thép Mới rất tài hoa, cách dẫn thơ đạm đà, lí thú.
Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình què cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:
Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng.
Chiếc điếu cày tre làm niềm vui tuổi già, chiếc nôi tre là sự ấm êm hạnh phúc của tuổi thơ, cái giường tre bình dị gắn bó với mọi người mọi nhà sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ. Qua cây tre, tác giả ca ngợi tình nghĩa thuỷ chung là đạo lí cao đẹp của dân tộc.
Tre là bạn thân, là người nhà là cánh tay của người nông dân, tre là bạn tâm tình của mọi lứa tuổi. Tre còn là "đồng chí chiến đấu của ta" trong kháng chiến. Tre mọc thẳng, trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng là dáng đứng không chịu khuất của con người Việt Nam. Gậy tầm vông, cái chông tre là vũ khí đánh giặc rất lợi hại của ta, làm nên chiến công và truyền thống anh hùng của dân tộc. Thép Mới đã vận dụng phép nối trong văn xuôi cổ rất sáng tạo:
Buổi đầu, không một tấc sắt trong tay, tre là tất cả, tre là vũ khí. Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng nên Thành đồng Tổ quốc! Và sông Hồng bất khuất có cái chồng tre. Trong đoạn văn sau, tre được nhân hoá mang chí khí người nông dân mặc áo lính, người dũng sĩ anh hùng lẫm liệt hiên ngang. Chữ "tre" được điệp lại 7 lần, câu văn ngắn dồn dập diễn tả không khí chiến đấu và chiến thắng giòn giã của quân và dân ta trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.
Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Tre anh hùng lao động! Tre, anh hùng clúển đấu!.
Đây là một trong những đoạn văn tráng lệ nhất, mang âm điệu anh hùng ca trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Không khí, lịch sử thời đại, chiến thắng Điện Biên Phủ thần kỳ đã đem đến sức tung hoành của ngòi bút của Thép Mới.
Nhạc của tre là khúc nhạc đồng quê. Nhạc của khóm tre làng rung lên man mác trong nồm nam con gió thổi, là diều lá tre là sáo tre sáo trúc giữa lồng lộng trời cao. Đoạn văn xuôi giàu tính nhạc và chất thơ cho ta bao cảm xúc và ấn tượng:
Diều bay, diều lá tre bay lưng trời...
Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời..
Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều
Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre...
Phần thứ ba của bài tuỳ bút nói về cây tre trong tương lai. Như một quy luật của sự sống vĩnh hằng: Tre già măng mọc. Búp măng non sẽ còn mãi trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam. Tre, nứa sẽ còn mãi... còn mãi... còn mãi... với dân tộc ta, "chia bùi sẻ ngọt" với nhân dân ta trong hạnh phúc, hoà bình.
Đất nước sẽ được công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sẽ có nhiều sắt thép, nhưng cây tre vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bóng mát của tre xanh, khúc nhạc tâm tình của tre, cổng chào thắng lợi, những chiếc đu tre, tiếng sáo diều tre vẫn trường tồn cùng đất nước và nhân dân ta trên dặm đường trường của những ngày mai tươi hát...
Cây tre Việt Nam, cây tre xanh với bao phẩm chất nhũn nhặn, ngay thẳng, thuỷ chung, can đảm là biểu trưng cao quý của dân tộc Việt Nam". Thép Mới đã dành những lời tốt đẹp nhất ca ngợi cây tre với tất cả tình yêu và niềm tự hào về quê hương xứ sở, về đất nước và con người Việt Nam.
Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Nhắc đến Lượm, người đọc nhớ đến hình ảnh đầy ấn tượng về một chú bé liên lạc nhỏ
nhắn, xinh xinh, nhanh nhẹn hồn nhiên, nhí nhảnh vui tươi. Những từ láy loát choắt, xinh
xinh, thoăn thoát, nghênh nghềnh được dùng rất gợi hình gợi cảm, cùng với thể thơ bốn
chữ và nhịp thơ nhanh, tạo âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh rất phù hợp với một chú bé như
Lượm. Một con chim chích - nhảy trên đường vàng... gợi lên trước mắt chúng ta một chú
bé hồn nhiên yêu đời. Thật thú vị! Có lẽ không còn hình ảnh nào có thể thay thế cho được
hình ảnh con chim nhỏ và chỉ có hình ảnh này mới thể hiện được vẻ đẹp trẻ thơ của chú bé
liên lạc. Bao trùm lên tất cả là cái tình của nhà thơ, cái nhìn trìu mến, thân thương của tác
giả đối với chú bé. Phải yêu quí Lượm lắm thì mới miêu tả Lượm hay đến như vậy! Lượm vui
như con chim sổ lồng. Cái ý đi làm liên lạc thích hơn ở nhà, đúng là niềm vui của con chim sổ lồng.
Đó là niềm vui chung của cả thế hệ trẻ sau Cách mạng tháng Tám, chứ không riêng gì của chú bé Lượm.