VIETNAM TA CÓ MẤY DÂN TỘC?
ĐÓ LÀ DÂN TỘC NÀO? MK CHỈ BIẾT DÂN TỘC KINH
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Châu Á: có khoảng 50 quốc gia, diện tích gần 50 triệu km2 – là châu lục lớn nhất và cũng chiếm dân số đông nhất (60% dân số thế giới ở đây)
- Châu Âu: có diện tích hơn 10 triệu km2 với gần 51 quốc gia. (con số này chưa được thống kê cụ thể vì có nhiều vùng trước đây là thuộc địa nhưng hiện đang tuyên bố độc lập, và cũng có có vài quốc gia nằm trên cả lãnh thổ châu Á và châu Âu)
- Châu Phi: diện tích hơn 30 triệu km2 với 54 quốc gia.
- Châu Bắc Mỹ: có diện tích hơn 24 triệu km2 với 3 quốc gia lớn (Canada, Mỹ, Mexico) và một số quốc gia nhỏ lẻ nằm ở vùng biển Caribbean.
- Châu Nam Mỹ: với diện tích khoảng hơn 17 triệu km2, có 12 quốc gia.
- Châu Úc (châu Đại Dương): diện tích hơn 8 triệu km2 với 14 quốc gia độc lập, ngoài ra còn có 16 vùng lãnh thổ thuộc các nước tư bản lớn trên thế giới.
- Châu Nam Cực: dân số chỉ rơi vào khoảng 2000 người (chủ yếu là những nhà khoa học đến nghiên cứu), diện tích 14 triệu km2.
Câu 1: (0,5 điểm) Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống. Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi vào thời gian nào?
A. 30/3/1954 □
B. 13/3/1954 □
C. 7/5/1954 □
D. 30 /4/1954 □
Câu 2 (0,5 điểm): Hiệp định Giơ- ne- vơ được kí vào ngày, tháng, năm nào?
A. 2/9/1945
B. 21 /7/1954
C. 30/12/1972
D. 27/1/1973
Câu 3 (0,5 điểm).Trung ương Đảng quyết định mở đường Trường Sơn nhằm mục đích:
A. Để miền Bắc chi viện cho miền Nam, thực hiện nhiệm vụ thống nhất đất nước.
B. Để mở đường thông thương sang Lào và Cam-pu-chia.
C. Để nhân dân có đường giao thông.
D. Ý A và B đều đúng.
Câu 4 (0,5 điểm): Nhà máy thủy điện Hòa Bình được cán bộ và công nhân hai nước nào xây dựng?
A. Việt Nam và Lào
B. Việt Nam và Trung Quốc
C. Việt Nam và Liên Xô
D. Liên Xô và Lào
Câu 5.(1 điểm) Hãy điền những nội dung phù hợp vào các chỗ (...) trong bảng.
Nội dung | Quyết định của Kì họp thứ I Quốc hội khóa VI |
Tên nước | |
Quốc kì | |
Quốc ca | |
Thủ đô | |
Thành phố Sài Gòn – Gia Định |
Câu 6. (1 điểm) Nêu ý nghĩa lịch sử của chiến thắng 30- 4- 1975?
Câu 7 (1 điểm) Vì sao Mĩ phải kí hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam?
II. Địa lí (5 điểm)
Khoanh vào chữ cái trước ý trả lời đúng hoặc hoàn thành các yêu cầu sau:
Câu 1 (0,5 điểm): Hoang mạc Xa-ha-ra nằm ở châu lục:
A. châu Á
B. châu Phi
C. châu Mĩ
D. Châu Âu
Câu 2 (0,5 điểm): Trong các ý sau, ý nào không nêu đúng đặc điểm của châu Á?
A. 2/3 diện tích là đồng bằng, 1/3 diện tích là đồi núi.
B. Có đủ các đới khí hậu.
C. Đa số người dân làm nghề nông nghiệp là chính.
Câu 3 (0,5 điểm): Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống. Nước nào có số dân đông nhất thế giới?
A. Liên bang Nga □
B. Trung Quốc □
C. Hoa Kì □
Câu 4 (0,5 điểm): Đặc điểm khí hậu của châu Phi là:
A. Có khí hậu ôn hòa.
B. Có băng tuyết quanh năm.
C. Nóng và khô bậc nhất thế giới.
Câu 5 (1 điểm): Điền từ trong ngoặc đơn vào mỗi chỗ trống (…) cho phù hợp. (khắc nghiệt, đồi núi thấp, lớn nhất, Á, tài nguyên thiên nhiên)
Liên bang Nga có diện tích …………………. thế giới, nằm ở cả châu …. và châu Âu . Phần lãnh thổ thuộc châu Á có khí hậu…………… ….., phần lãnh thổ thuộc châu Âu chủ yếu là đồng bằng và ……………… . Liên bang Nga có nhiều…………………… ….. là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế.
Câu 6. (1 điểm) Nêu một số đặc điểm về địa hình và khí hậu của châu Mĩ?
Câu 7. (1 điểm) Kể tên các đại dương trên thế giới và sắp xếp theo thứ tự từ lớn đến bé về diện tích?
Ông là người lãnh đạo quân ta đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ hơn 1.000 năm Bắc thuộc và mở ra một thời kỳ độc lập, tự chủ mới cho nước nhà
Từ nhỏ, Ngô Quyền đã sống trong truyền thống yêu nước của quê hương. Ngô Quyền là vị vua họ Ngô đầu tiên của nước ta. Ông là người lãnh đạo quân ta đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ hơn 1.000 năm Bắc thuộc và mở ra một thời kỳ độc lập, tự chủ mới cho nước nhà.
Chi tiết cuộc khởi nghĩa:
Năm 938, sau khi tập hợp các hào kiệt trong nước đứng về phía mình, Ngô Quyền mang quân từ Ái châu ra Bắc đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn bị cô lập không chống nổi, trông chờ viện binh của Nam Hán.
Trong khi vua Nam Hán đang điều quân thì Ngô Quyền đã tiến ra thành Đại La (Tống Bình). Kiều Công Tiễn bị túng thế không đủ sức chống lại nên thành nhanh chóng bị hạ, Kiều Công Tiễn bị giết chết. Lúc đó quân Nam Hán vẫn chưa tiến vào tới biên giới.
Vua Nam Hán cho con trai là Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem 2 vạn quân sang với danh nghĩa là cứu Công Tiễn. Lưu Nghiễm hỏi kế ở Sùng Văn hầu là Tiêu Ích. Ích nói:
“ | Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến. | ” |
— Sùng Văn hầu Tiêu Ích |
Vua Nam Hán đang muốn hành quân nhanh để đánh chiếm lại Tĩnh Hải quân, nên không nghe theo kế của Tiêu Ích, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào. Lưu Nghiễm tự mình làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Hải Môn là một trấn, tên đặt từ thời nhà Đường, vùng mà thời phong kiến gọi là Hải Dương.
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, ông bảo với các tướng rằng:
“ | Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát. | ” |
— Ngô Quyền |
Ngô Quyền cho quân sĩ đóng cọc có bịt sắt nhọn xuống lòng sông Bạch Đằng. Khi thuỷ triều lên, bãi cọc không bị lộ. Ngô Quyền dự định nhử quân địch vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền địch mắc cạn mới giao chiến. Vào một ngày cuối đông năm 938, trên sông Bạch Đằng, vùng cửa biển và hạ lưu, cả một đoàn binh thuyền do Hoằng Tháo chỉ huy vừa vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng. Quân Nam Hán thấy quân của Ngô Quyền chỉ có thuyền nhẹ, quân ít tưởng có thể ăn tươi, nuốt sống liền hùng hổ tiến vào. Ngô Quyền ra lệnh cho quân bỏ chạy lên thượng lưu. Đợi đến khi thủy triều xuống, ông mới hạ lệnh cho quân sĩ đổ ra đánh. Thuyền chiến lớn của Nam Hán bị mắc cạn và lần lượt bị cọc đâm thủng gần hết. Lúc đó Ngô Quyền mới tung quân ra tấn công dữ dội. Quân Nam Hán thua chạy, còn Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng với hơn một nửa quân sĩ.
Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Nghe tin Hoằng Tháo tử trận, Nghiễm kinh hoàng, đành "thương khóc thu nhặt quân còn lại mà rút lui" (Đại Việt sử ký toàn thư). Từ đó nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược Tĩnh Hải quân. Lưu Cung cũng than rằng cái tên "Cung" của ông là xấu.
Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội ngày nay).
Sông Đồng Nai
Là con sông nội địa dài nhất Việt Nam. Sông Đồng Nai có khởi nguồn từ cao nguyên Langbiang (Lâm Đồng) có tổng chiều dài 586km. Với lưu lượng nước cực lớn, là nguồn thuỷ năng dồi dào cung cấp cho nhà máy thuỷ điện Đồng Nai. Sông Đồng Nai chảy qua các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh với chiều dài trên 437 km và lưu vực 38.600 km², nếu tính từ đầu nguồn sông Đa Dâng thì dài 586 km còn nếu tính từ điểm hợp lưu với sông Đa Nhim phía dưới thác Pongour thì dài 487 km. Sông Đồng Nai đổ vào biển Đông tại khu vực huyện Cần Giờ.
Dòng chính sông Đồng Nai ở thượng nguồn còn gọi là sông Đa Dâng. Sông xuất phát từ cao nguyên Lâm Viên, uốn khúc theo chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam vượt khỏi miền núi ra đến bình nguyên ở Tà Lài (huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai). Sông là ranh giới tự nhiên giữa Đăk R'Lấp (Đắk Nông) và Bảo Lâm - Cát Tiên (Lâm Đồng), giữa Cát Tiên và Bù Đăng (Bình Phước) - Tân Phú, giữa Tân Phú và Đạ Tẻh.
Sau khi gặp sông Bé, sông Đồng Nai thành ranh giới tự nhiên giữa Đồng Nai (Vĩnh Cửu) ở tả ngạn - phía đông và Bình Dương (Tân Uyên) ở hữu ngạn - phía tây. Đến phường Uyên Hưng thị xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương thì sông Đồng Nai chảy theo hướng Bắc - Nam ôm lấy cù lao Tân Uyên và Cù Lao Phố. Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai là nơi phát triển sầm uất của cộng đồng người Minh Hương trước khi vùng đất này trở thành đơn vị hành chính chính thức của Đàng Trong năm 1698.
Sông Đồng Nai chảy qua thành phố Biên Hòa, rồi chảy dọc theo ranh giới giữa Đồng Nai (Long Thành, Nhơn Trạch) và thành phố Hồ Chí Minh (quận 9, quận 2, quận 7, Nhà Bè, Cần Giờ), giữa Bà Rịa - Vũng Tàu (Phú Mỹ) và Thành phố Hồ Chí Minh (Cần Giờ). Dòng chính sông Đồng Nai ở hạ lưu, đoạn từ chỗ sông Sài Gòn hợp lưu đến chỗ phân lưu thành Soài Rạp và Lòng Tàu, thường gọi là sông Nhà Bè. Sách xưa gọi sông này là "Phước Bình".
Sông Nile – 6650 km
Sông Nile được coi là con sông dài nhất thế giới. Hồ Victoria được coi là đầu nguồn của dòng sông. Nó chảy qua Ai Cập, Uganda, Ethiopia, Kenya, Tanzania, Rwanda, Cộng hòa Dân chủ Congo, Eritrea, Burundi, Sudan và Nam Sudan. Sông Nile xanh và trắng là hai phụ lưu của sông
Ngô Quyền (Tiền Ngô Vương) | ||
---|---|---|
Vua Việt Nam | ||
Tượng Ngô Quyền trong đền thờ ông ở thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây. | ||
Ngô Vương | ||
Trị vì | 939 – 944 | |
Tiền nhiệm | Sáng lập triều đại | |
Kế nhiệm | Dương Bình Vương | |
Thông tin chung | ||
Sinh | 12 tháng 3 năm 897 Đường Lâm, Tĩnh Hải quân | |
Mất | 14 tháng 2 năm 944 (47 tuổi) Tĩnh Hải quân | |
An táng | 18 tháng 2 năm 944 Lăng Ngô Quyền | |
Vợ | Dương Phương Lan Dương Như Ngọc Đỗ phi | |
Hậu duệ | Ngô Xương Ngập Ngô Xương Văn Ngô Nam Hưng Ngô Càn Hưng | |
| ||
Triều đại | Nhà Ngô | |
Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權; 12 tháng 3 năm 898 – 14 tháng 2 năm 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王) hoặc Ngô Vũ Vương, là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng, chính thức kết thúc gần một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, lập ra nhà Ngô, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Những chủ điểm mình đã học trong môn Tiếng Việt là : Thương người như thể thương thân, Măng mọc thẳng, Trên đôi cánh ước mơ, Ôn tập giữa học kì l và Có chí thì nên. ( Mình học lớp 4 )
Trong các thành tựu của văn minh Trung Quốc cổ đại, em thích nhất thành tựu Vạn Lí trường thành. Vì Vạn Lý Trường Thành được xem như công trình vĩ đại nhất Trung Quốc, là một trong những kỳ quan nhân tạo lâu đời nhất và hùng vĩ nhất còn tồn tại đến ngày nay, biểu tượng của nền văn minh Trung Quốc cổ đại.
Quá trình xây dựng Vạn Lý Trường Thành mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc, cả mồ hôi, xương máu của người dân. Nhiều gia đình bị ly tán, nhiều công nhân đã chết và mai táng như một phần của công trình này. Công nhân được huy động khắp nơi từ lính, nông dân, phiến quân. Sử dụng các loại vật liệu như đá, đất, cát, gạch và hoàn toàn sử dụng các phương tiện thô sơ trong xây dựng và vận chuyển bằng tay, dây thừng, giỏ đeo.
Vạn lí trường thành là “Bảy kỳ quan mới của thế giới” và Di sản Thế giới của UNESCO
- Trong các thành tựu văn minh Trung Quốc thời cổ đại, em ấn tượng nhất với “Đội quân đất nung trong lăng mộ của Tần Thủy Hoàng”.
+ Hầm mộ binh mã rỗng cách lăng Tần Thủy Hoàng (huyện Lâm Đồng, tỉnh Thiểm Tây) khoảng 1.500m về phía Đông. Cho đến nay, Trung Quốc đã phát hiện 4 hầm mộ binh mã rỗng, trong đó có 1 hầm chưa xây dựng xong, vì vậy ở đây không có tượng lính và tượng ngựa tùy táng. Trong 3 hầm mộ binh mã rỗng, hầm số 1 có quy mô lớn nhất, chạy từ Đông sang Tây, dài 210 mét, rộng khoảng 60 mét, tổng diện tích khoảng 13.000m2.. Trong 3 hầm mộ binh mã rỗng còn lại, hầm số 1 là hầm của Hữu quân, thiết lập một thế trận hùng mạnh với bộ binh là chính. Hầm mộ số 2 là hầm mộ của Tả quân với thế trận rất quy mô, gồm có chiến xa, kỵ binh và bộ binh. Hầm mộ chưa xây dựng xong là hầm mộ dành cho Trung quân theo dự định...
+ Tượng binh mã rỗng không những có giá trị về mặt nghệ thuật, mà còn có thể giúp nhân loại giải đáp nhiều thắc mắc của các nhà nghệ thuật đương đại về vấn đề chiến tranh thời cổ đại ở Trung Quốc.
+ Kết quả khai quật cho thấy chủ yếu tượng được đúc kết hợp giữa mô hình thật với phương pháp nặn tượng. Người ta lấy đất sét ở địa phương làm nguyên liệu nặn tượng. Trước hết làm phần đầu, phần thân và chân tay, bên trong tượng đúc rỗng, sau đó lắp ghép từng bộ phận lại với nhau, đợi đến sắp khô mới bắt đầu chạm khắc các chi tiết như tai, mũi, mắt, miệng, tóc, trang phục...
Sau khi tượng hoàn thành, phải đợi tượng khô hoàn toàn mới cho vào lò nung. Công nghệ làm tượng ngựa cũng tương tự. Chính vì các tượng lính và tượng ngựa được làm từng cái một cho nên mỗi tượng có nét khác nhau trông rất độc đáo. Đặc biệt là nét mặt rất phong phú và sinh động.
=> Việc khai quật binh mã rỗng vào năm 1974 một lần nữa đánh thức nền văn minh thời cổ Trung Quốc, mở ra cánh cửa để người đương đại tìm hiểu kho tàng lịch sử bị vùi trong hàng ngàn năm.
Mã
Tên
Tên gọi khác
Theo Ủy ban Dân tộc, Việt Nam hiện nay có 54 dân tộc anh em, cụ thể như sau:
Thứ tự
Dân tộc
Tên gọi khác
Lịch sử
1
Ba Na
Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...
Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hóa độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.
2
Chăm
Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...
Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa ấn Độ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Đốc,Tây Ninh, An Giang, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.
3
Co
Cor, Col
Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Đăng, Ba Na... Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.
4
Cống
Xắm khống, Phuy A
Người Cống có nguồn gốc di cư trực tiếp từ Lào sang.
5
Giáy
Nhắng, Giẳng
Người Giáy từ Trung quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.
6
HRÊ
Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Lũy, Mọi Sơn Phòng, Mọi Đá Vách, Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích.
Người Hrê thuộc số cư dân sinh tụ rất lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.
7
La Chí
Tên tự gọi: Cù tê; tên gọi khác: Thổ Đen, Mán, Xá.
Người La Chí có lịch sử cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.
8
Lô Lô
Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn
Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.
9
Mnông
Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.
10
Nùng
Tên tự gọi: Nồng
Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm.
11
Pu Péo
Tên tự gọi: Kabeo; Tên gọi khác: La Quả, Penti Lô Lô.
Họ đã từng sinh sống lâu đời ở miền cực bắc Việt Nam. Các dân tộc láng giềng đều thừa nhận người Pu Péo là một trong những cư dân khai khẩn ruộng nương đầu tiên ở vùng cực bắc.
12
Sán Dìu
Tên tự gọi: San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân); Tên gọi khác: Trại, Trại Đất, Mán Quần cộc, Mán Váy xẻ...
Người Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay.
13
Thái
Tên tự gọi: Tay hoặc Thay; Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ
Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
14
Xơ Đăng
Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Đrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu
Tên gọi khác: Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.
Người Xơ Đăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.
15
Bố Y
Chủng Chá, Trọng Gia...
Người Bố Y di cư từ Trung Quốc sang cách đây khoảng 150 năm.
16
Chơ Ro
Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.
Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Đông Dương.
17
Cơ Ho
Người Cơ Ho có lịch sử cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.
18
Dao
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng)
Tên gọi khác: Mán.
Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
19
Gié-Triêng
Cà Tang, Giang Rẫy.
Người Gié-Triêng là cư dân gắn bó rất lâu đời ở vùng quanh quần sơn Ngọc Linh.
20
Kháng
Tên tự gọi: Mơ Kháng.
Tên gọi khác: Háng, Brển, Xá.
Người Kháng là một trong số các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc nước ta.
21
La Ha
Tên tự gọi: La Ha, Klá, Phlạo.
Tên gọi khác: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa.
Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Đen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ "trâu trắng" để tế thần ¡m Poi - một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
22
Lự
Tên tự gọi: Lừ, Thay hoặc Thay Lừ.
Tên gọi khác: Phù Lừ, Nhuồn, Duồn.
Người Lự đã có mặt ở khu vực Xam Mứn (Điện Biên) ít nhất cũng trước thế kỷ XI - XII. Tại đây họ đã xây thành Xam Mứn (Tam Vạn) và khai khẩn nhiều ruộng đồng. Vào thế kỷ chiến tranh người Lự phải phân tán đi khắp nơi, một bộ phận nhỏ chạy lên sinh sống ở vùng núi Phong Thổ, Sìn Hồ.
23
Mông
Tên tự gọi: Mông, Na Mỉeo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Đỏ, Mông Đen, Mông Xanh, Na Mỉeo.
24
Ơ Đu
Tày Hạt (người đói rách).
Xưa kia người Ơ Đu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hòa lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Đu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hòa, xã Kim Đa huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa.
25
RA GLAI
Người Ra Glai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ.
26
Si La
Tên tự gọi: Cù Dề Sừ.
Tên gọi khác: Kha Pẻ.
Người Si La có nguồn gốc di cư từ Lào sang.
27
Thổ
Người Nhà làng, Mường, Con Kha, Xá Lá Vàng
Địa bàn cư trú hiện nay của người Thổ vốn là giao điểm của các luồng di cư xuôi ngược. Do những biến động lịch sử ở những thế kỷ trước, những nhóm người Mường từ miền Tây Thanh Hóa dịch chuyển vào phía Nam gặp gỡ người Việt từ các huyện ven biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương ngược lên hòa nhập với cư dân địa phương có thể là gốc Việt cổ ở đây. Những người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy ngày một hòa nhập vào nhau thành một cộng đồng chung dân tộc Thổ.
28
XTiêng
Xa Điêng hay Xa Chiêng.
Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.
29
Brâu
Brao
Người Brâu chuyển cư vào Việt Nam cách đây khoảng 100 năm. Vùng Nam Lào và Đông Bắc Campuchia là nơi sinh tụ của người Brâu. Hiện nay, đại bộ phận cộng đồng này vẫn quần cư trên lưu vực các dòng sông Xê Xan (Xê Ca Máng) và Nậm Khoong (Mê Kông). Người Brâu có truyền thuyết Un cha đắc lếp(lửa bốc nước dâng) nói về nạn hồng thủy.
30
Chu-RU
Chơ Ru, Kru, Thượng
Có lẽ xa xưa, tổ tiên người Chu Ru là một bộ phận trong khối cộng đồng Chăm; về sau, họ chuyển lên miền núi sống biệt lập với cộng đồng gốc nên thành người Chu Ru.
31
Cờ Lao
Tứ Đư, Ho Ki, Voa Đề
Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm.
32
Ê-Đê
Anăk Ea Đê, Ra Đê (hay Rhađê), ê Đê, êgar, Đê
Người ê Đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng ê Đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
33
Hà Nhì
U Ní, Xá U Ní
Cư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 8, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.
34
Khmer
Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm
Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hóa của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
35
La Hủ
Xá lá vàng, Cò Xung, Khù Sung, Kha Quy, Cọ Sọ, Nê Thú
Người La Hủ chủ yếu làm nương du canh với nhịp độ luân chuyển cao. Gần đây họ chuyển dần sang trồng lúa trên ruộng bậc thang. Người La Hủ nổi tiếng về nghề đan lát (mâm cơm, ghế mây), rèn.
36
Mạ
Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ
Người Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên
37
Mường
Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).
Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.
Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ...
38
PÀ THẺN
Tên tự gọi: Pà Hưng.
Tên gọi khác: Mèo Lài, Mèo Hoa, Mèo Đỏ, Bát tiên tộc...
Theo truyền thuyết, người Pà Thẻn ở vùng Than Lô (Trung Quốc) đến Việt Nam cách đây khoảng 200-300 năm với câu chuyện vượt biển cùng người Dao.
39
RƠ MĂM
Những người già làng cho biết họ là cư dân đã sinh sống ở khu vực này từ xa xưa. Đầu thế kỷ XX dân số của tộc này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia Lai. Hiện họ chỉ sống tập trung trong một làng.
40
TÀ ÔI
Tà Ôi, Pa Cô, Tà Uốt, KanTua, Pa Hy...
Người Tà Ôi thuộc lớp dân cư tụ lâu đời ở Trường Sơn.
41
Việt
Kinh
Tổ tiên người Việt từ rất xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Việt luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
42
BRU-VÂN KIỀU
Bru, Vân Kiều.
Họ thuộc số dân cư được coi là có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.
43
Chứt
Rục, Arem, Sách
Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khóa nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hóa và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.
44
Cơ Tu
Ca Tu, Ka Tu.
Người Cơ Tu cư trú lâu đời ở miền núi tây bắc tỉnh Quảng Nam, tây nam tỉnh Thừa Thiên Huế, liền khoảnh với địa bàn phân bố tộc Cơ Tu bên Lào. Họ thuộc số cư dân cư trú lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.
45
Gia Rai
Giơ Ray, Chơ Ray.
Dân tộc Gia Rai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây Nguyên, lan sang một phần đất Campuchia. Trong xã hội Gia Rai xưa đã có Pơ tao ia (vua nước) và Pơ tao pui (vua lửa) chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió hòa... Trước thế kỷ XI người Ê Đê, Gia Rai được gọi chung một tên là Rang Đêy. Vào thế kỷ XV-XVI sử sách phong kiến Việt Nam ghi nhận danh hiệu Thủy Xá (vua nước), Hỏa Xá (vua lửa). Chỉ có người đàn ông họ Siu mới được làm vua lửa, vua nước và con gái họ Rơ chom mới được quyền làm vợ hai vua. Có lẽ chữ Pơ tao đồng nghĩa với Mtao của người Chăm, Tạo của người Thái và Thao của Lào, đều chỉ người thủ lĩnh.
46
Hoa
Khách, Hán, Tàu
Người Hoa di cư đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau từ thế kỷ XVI, và sau này vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh, kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ XX.
47
KHƠ MÚ
Kmụ, Kưm Mụ
Khơ Mú là một trong những cư dân đã cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ phận Khơ Mú cư trú tại miền núi các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.
48
Lào
Thay, Thay Duồn, Thay Nhuồn
Người Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang
49
Mảng
Mảng Ư, Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá O
Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là "quê hương" của người Mảng. Nhiều truyền thuyết, truyện kể còn lưu truyền cho đến ngày nay giúp chúng ta có thể nhận ra người Mảng là một trong những dân cư bản địa ở vùng Tây Bắc.
50
NGÁI
Tên tự gọi: Sán Ngải.
Tên gọi khác: Ngái Hắc Cá, Ngái Lầu Mần, Hẹ, Sín, Đản, Lê, Xuyến.
Người Ngái có nhiều gốc khác nhau và thiên di tới Việt Nam làm nhiều đợt. Quá trình này diễn ra suốt thời kỳ Trung và Cận đại.
51
PHÙ LÁ
Tên tự gọi: Lao Va Xơ, Bồ Khô Pạ, Phù Lá.
Tên gọi khác: Xá Phó, Cần Thin.
Nhóm Phù Lá Lão - Bồ Khô Pạ là cư dân có mặt tương đối sớm ở Tây Bắc nước ta.
Các nhóm khác đến muộn hơn, khoảng 200-300 năm trở lại, quá trình hội nhập của nhóm Phù Lá Hán còn tiếp diễn cho tới những năm 40 của thế kỷ XX.
52
Sán Chay
Hờn Bán, Chùng, Trại...
Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm.
53
Tày
Thổ
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
54
Xinh Mun
Puộc, Xá, Pnạ
Người Xinh Mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam.