K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

4 tháng 9 2021

cha ban nha                                                                                                              

4 tháng 9 2021

Từ xa xưa, dịch bệnh không phải là điều hiếm gặp, và nó đã từng xuất hiện thường xuyên trong lịch sử con người. Ta có thể kể tên những đại dịch khiến cả thế giới đều e ngại như bệnh dịch hạch, Ebola, SARS, .. và đến cuối năm 2019, ta một lần nữa chứng kiến đại dịch của thế giới: Covid-19. Đó là một loại virus được xuất hiện đầu tiên ở Vũ Hán, Trung Quốc, gây là bệnh viêm đường hô hấp cấp ở con người. Đại dịch lây lan một cách nhanh chóng, tính đến đầu tháng 4/2020, Covid-19 đã xuất hiện ở 206 quốc gia, hơn 1 triệu người nhiễm bệnh, gần 60.000 ca tử vong. Thật đáng mừng rằng, Việt Nam ta đã thực hiện vô cùng tốt trong công tác phòng chống dịch, mọi thứ đều được thực hiện theo quy định, kiểm soát tình hình dịch bệnh trong cả nước được nâng lên mức cao nhất. Vậy trách nhiệm của mỗi công dân khi dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp là gì? Đầu tiên, ta cần phải tự ý thức được trách nhiệm góp phần chung tay vào phòng chống dịch bệnh. Khi thấy bản thân có những dấu hiệu như sốt, ho, khó thở,... hay có tiếp xúc gần với các ca lây nhiễm được công bố thì phải lập tức thông báo tới cơ sở y tế để kiểm tra, và tiến hành cách ly an toàn. Mỗi người đều phải trang bị đầy đủ khẩu trang, nước rửa tay khô mỗi khi ra đường, rửa thường xuyên với dung dịch khử trùng mỗi khi tiếp xúc mới bề mặt cứng ở ngoài. Không nên tụ tập đông người, vứt khẩu trang đúng nơi quy định. Đặc biệt, chúng ta cần tuyên truyền, chia sẻ những thông tin chính thống từ Chính phủ, Bộ Y tế cho người thân, bạn bè để cùng nhau đẩy lùi dịch bệnh. Tất nhiên, vẫn còn tồn đọng những cá nhân thiếu ý thức, ích kỷ và không tôn trọng sức khỏe của bản thân cũng như của cả cộng đồng, việc này nhất định phải lên án, phê bình. Nếu mỗi công dân đều chung tay, đồng lòng, quyết tâm thì việc chiến thắng đại dịch Covid-19 là điều chắc chắn!

sai thì xin lỗi ạ

4 tháng 9 2021

Tóm tắt

    Câu chuyện là dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” về những kỉ niệm của buổi tựu trường đầu tiên. Cảm giác náo nức, hồi hộp, ngỡ ngàng với con đường, cảnh vật, trường học, bạn bè, thầy giáo.

Bố cục:

    - Phần 1 (từ đầu ... trên ngọn núi): tâm trạng nhân vật “tôi” trên đường đến trường.

    - Phần 2 (tiếp ... nghỉ cả ngày mà): diễn biến tâm trạng “tôi” khi đến trường.

    - Phần 3 (còn lại): nhân vật “tôi” đón nhận giờ học.

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

    - Những điều gợi về buổi tựu trường đầu tiên: cuối thu lá rụng, mây bàng bạc, mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ.

    - Những kỉ niệm diễn tả theo trình tự thời gian (hiện tại → quá khứ), không gian (trên đường đến trường → sân trường Mĩ Lí → trong lớp học) và trình tự diễn biến tâm trạng nhân vật.

Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

    Tâm trạng hồi hộp, cảm giác bỡ ngỡ:

    - Trên đường cùng mẹ đến trường: thấy “lạ”, trong lòng “đang có sự thay đổi lớn”, cảm thấy trang trọng và đứng đắn; Nâng niu mấy quyển vở, muốn thử sức cầm bút.

    - Mới đến trường: ngạc nhiên, cảm thấy nhỏ bé, lo sợ.

    - Nghe gọi tên và rời tay mẹ: giật mình, lúng túng, sợ hãi như quả tim ngừng đập.

    - Ngồi trong lớp: mùi hương lạ, thấy lạ với bức hình treo trên tường, lạm nhận bàn ghế, chỗ ngồi là của mình; không hề thấy xa lạ với người bạn mới ngồi bên; Nhìn theo cánh chim... một kỉ niệm cũ sống lại.

Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

    Thái độ, cử chỉ những người lớn rất có trách nhiệm, tạo ấn tượng tốt với các em:

    - Ông đốc: hiền từ, giọng nói căn dặn, động viên, tươi cười nhẫn nại.

    - Thầy giáo: tươi cười chờ đón.

    - Các phụ huynh: âu yếm, chuẩn bị chu đáo cho con, cùng hồi hộp với con.

Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

    Các hình ảnh so sánh:

    - “... những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng” → tình cảm đẹp đẽ, trong sáng của cậu bé lần đầu đi học.

    - “Ý nghĩ ấy thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi” → tâm hồn mơ mộng của trẻ thơ không bận tâm quá nhiều điều gì.

    - “Họ như con chim non đứng bên bờ tổ nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ” → sự non nớt, khát vọng của những cậu học sinh.

    - “Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng”→ lòng người hồi hộp với tiếng trống.

    - “trường Mĩ Lí trông vừa xinh xắn, vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa Ấp”→ cái nhìn đẹp đẽ của trẻ thơ về ngôi trường.

Câu 5 (trang 9 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

    - Đặc sắc nghệ thuật của truyện:

        + Đan xen tự sự, miêu tả, bố cục chặt chẽ, thống nhất.

        + Mang chất thơ tinh tế, nhẹ nhàng.

    - Chất cuốn hút của truyện: chủ đề trong sáng, lời kể tự nhiên giàu chất biểu cảm theo dòng hồi tưởng của tác giả.

Luyện tập

Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

    Dòng cảm xúc của nhân vật “tôi” trong truyện thật tự nhiên, chân thật và hồn nhiên, khơi gợi kí ức mỗi người. Đó là cảm xúc bồi hồi, xúc động trước thiên nhiên, con người trong một ngày đặc biệt.

Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):

    Đoạn văn tham khảo:

    Buổi khai giảng đầu tiên của tôi, ông chở tôi trên chiếc xe đạp cũ tới trường, đường phố cảnh vật rực rỡ, cổng trường màu sắc rung rinh những lá cờ xanh, đỏ, vàng chào đón. Tôi ngỡ ngàng trước cái cổng cao lớn mà ngày nào tôi cũng đi qua, đến hôm nay tôi mới thấy nó đẹp đến thế. Chúng bạn hàng ngày tôi vẫn cùng bắn bi, bắt ve sầu nay cũng tươm tất áo mũ như tôi đến trường mới. Ngày khai trường đầu tiên của tôi. Ôi sao tôi quên được ngày lễ trọng đại ấy. Tôi đã trở thành cậu bé lớp Một. Ông bế tôi xuống chiếc xe đạp, tươi cười cặp mắt nhăn nhúm khẽ động đậy. Cháu nhìn xem, trường của cháu đấy. Ông từ từ dắt tay tôi vào sân trường mà những tà áo dài thướt tha đi lại. Cô giáo tôi, người gầy gầy, xếp chúng tôi thành một hàng dọc, chỉn chu từng đứa trẻ đứng thẳng hàng. Ông tôi đứng đằng xa kia, cười hiền hậu, tôi muốn khóc quá, chưa bao giờ tôi đứng một mình giữa những người bạn mới mà không có ông hay mẹ bên cạnh... Những cảm xúc ấy, có lẽ, chẳng bao giờ tôi quên được.

Hok tốt!

3 tháng 9 2021

Tham khảo !

Những ngày thơ ấu là tập hồi kí trung thực và cảm động về tuổi thơ cay đắng của nhà văn Nguyên Hồng trong chế độ cũ. Ở đoạn trích Trong lòng mẹ, tác giả đã miêu tả tinh tế những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại, đó là nỗi nhớ thương, yêu quý sâu sắc của bé Hồng đối với người mẹ của mình.

Lòng thương mẹ của bé Hồng được thể hiện qua tâm trạng và hành động của bé trong lần gặp mẹ vào ngày giỗ bố. Chiều ấy lúc tan trường, thoáng thấy người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, bé liền đuổi theo, bối rối gọi. Đó là tiếng gọi bật ra từ tình thương nhớ mẹ bao ngày dồn lại, là tiếng thổn thức tủi cực của trái tim con trẻ khao khát thương yêu. Tác giả đã miêu tả những cử chỉ thể hiện niềm vui sướng của bé Hồng khi gặp mẹ. Vì cố chạy đuổi theo mẹ mà bé thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi. Đến khi trèo được lên xe với mẹ thì mừng ríu cả chân lại. Mẹ vừa kéo tay, xoa đầu hỏi chuyện thì bé đã òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Lần này, bé Hồng khóc thành tiếng. Tiếng khóc trút bỏ những nỗi uất ức trong bao ngày xa mẹ, là tiếng khóc sung sướng được gặp lại mẹ thương yêu.

Trong lòng mẹ, bé Hồng nhận ra những cảm giác ấm áp thiếu vắng bấy lâu nay lại mơn man khắp cả da thịt. Bé nhận ra hơi quần áo của mẹ, hơi thở của mẹ lúc đó thơm tho lạ thường, gương mặt mẹ vẫn tươi sáng, mắt trong, da mịn, má hồng. Mẹ vẫn đẹp như thuở nào. Bé cũng nhận ra người mẹ có một êm dịu vô cùng… Tất cả những cảm giác đó, ý nghĩ đó chỉ có được khi đứa con hết lòng yêu thương mẹ.

Được gặp mẹ là một niềm hạnh phúc lớn lao, là một niềm vui khôn xiết. Được sà vào lòng mẹ, bé Hồng mừng đến nỗi quên hết mọi thứ trên đời. Những lời thăm hỏi của mẹ giống như một chuỗi âm thanh hạnh phúc, bé Hồng không thể nhớ đó là câu gì, chuyện gì. Ngay cả những lời cay độc của bà cô đã từng làm cho bé đau đớn, tủi cực… cũng chìm đi, biến mất. Bao trùm tâm trí bé là niềm hạnh phúc tột cùng khi được ngồi trong lòng mẹ. Phải thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát mẹ đến mức nào thì bé Hồng mới cảm thấy sung sướng như vậy khi được gặp lại mẹ mình.

Đoạn trích Trong lòng mẹ đã mở ra trước mắt chúng ta thế giới tâm hồn phong phú của một cậu bé bất hạnh. Tình thương mẹ đã giúp bé Hồng có cách nhìn xác thực về con người và cuộc đời. Cho dù cảnh ngộ có éo le đến mấy thì cũng không thể chia cắt được tình cảm mẹ con. Chúng ta càng thêm thương, thêm quý bé Hồng và càng trân trọng tình mẫu tử thiêng liêng.

3 tháng 9 2021

Mik biết nhưng không nói đui

\(x = {-b \pm \sqrt{b^2-4ac} \over 2a}\) ok nhé

3 tháng 9 2021

Sau khi đọc xong những tác phẩm của Nam Cao, người đọc dường như vẫn cảm thấy xót xa và day dứt khôn nguôi trước số phận của những con người khốn khổ như bà cái Tý trong Một bữa no, anh Đĩ Chuột trong Nghèo, anh Phúc trong Điếu văn...Song có lẽ ám ảnh hơn cả là cái chết dữ dội của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.

Mặc dù gần 7 thập kỷ đã trôi qua, nhưng cái chết ấy vẫn đủ sức làm quặn thắt bao tấm lòng người đọc. Vì sao vậy? Phải chăng vì Nam Cao tuy chưa dắt Lão Hạc vượt qua thảm cảnh bi đát của đời mình nhưng ông đã để ở đấy trọn vẹn một tấm lòng. Chính vì vậy mà ông để cho nhân vật của mình chọn một cái chết khác thường khi xét cả ba phương diện: nguyên nhân sâu xa của cái chết, phương cách chết và ý nghĩa của cái chết.

Thứ nhất là nguyên nhân cái chết. Một câu chuyện cười kể rằng: Có lão phu nọ vào rừng kiếm củi, trời nắng to, lão mệt mỏi và kiệt sức chẳng đủ sức để đỡ bó củi lên vai lão, lão buồn bã nói:

- Khổ thế này thì thà chết còn hơn.

Vừa dứt lời thì thần chết hiện lên hỏi:

- Ông lão! Ông vừa nói gì?

Ông lão hốt hoảng và ấp úng trả lời:

- Không! tôi chẳng nói gì cả. Tôi chỉ nói: giá như có ai đỡ bó củi lên vai thì hay biết mấy.

Câu chuyện thật đơn giản, ngắn ngủi và kết thúc bằng một tiếng cười bật lên từ phía người đọc. Nhưng có lẽ cái thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc thì chẳng giản đơn chút nào, đó là vấn đề tình yêu cuộc sống. Con người dường như càng già thì càng quý sự sống, hay nói cách khác là khi cận kề bên cái chết thì bản năng sinh tồn của con người sẽ trỗi dậy mãnh liệt và yêu sự sống hơn bao giờ hết.

Vậy thì tại sao Lão Hạc lại tìm đến cái chết? “Sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng không làm được nữa. Làng mất vè sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào họ tranh nhau làm mất cả. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão, hoa màu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày bão đến nay, vườn lão chưa có một tý gì để bán. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó, mỗi ngày 3 hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo đói dắt...”

Lão quyết định bán “Cậu Vàng”. Bán đi người bạn thân thiết nhất, bán đi kỷ vật cuối cùng của con trai lão- lão đau đớn, dằn vặt và lương tâm lão dày vò khôn nguôi. Rồi lão mang 25 đồng bạc lão dành dụm được cộng với 5 đồng bán chó, với mảnh vườn 3 sào sang gửi ông Giáo. Thế rồi từ hôm đó: “Tôi thấy Lão Hạc chỉ toàn ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì ăn món nấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì lão ăn rau má với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi.

- Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ, lão làm lão khổ, chứ ai làm lão khổ”.

Vâng! Có lẽ lão làm lão khổ thật. Bởi vì nếu lão là người cha tầm thường, à không! phải nói là người cha bình thường chứ, thì lão sẽ chưa chết, thậm chí sẽ còn sống lâu hơn nữa là đằng khác. 30 đồng bạc cộng với mảnh vườn 3 sào, sẽ là một khoản kha khá lão có thể sống được. Nhưng lão đã không làm như thế. Mảnh vườn là tài sản duy nhất vợ lão hồi còn sống phải thắt lưng buộc bụng mới tậu được. Nó là tài sản duy nhất vợ chồng lão dành cho con. Bởi vậy mảnh vườn ấy gắn với danh dự, bổn phận của kẻ làm chồng, làm cha. Còn món tiền 30 đồng bạc ấy sẽ được dùng phòng khi lão chết có tiền ma chay. Lòng tự trọng không cho phép lão làm phiền đến mọi người. Cho nên món tiền ấy mang ý nghĩa danh dự của kẻ làm người, lão không thể tiêu vào đó. Cuối cùng lão chọn cái chết để tự giải thoát.

Vậy, từ diễn biến trên ta thấy nguyên nhân cái chết của Lão Hạc là do tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão đến bước đường cùng: Lão phải chết, đó cũng là số phận cơ cực đáng thương của những người nông dân nghèo sống trong thời kỳ đen tối trước cách mạng tháng Tám. Song nguyên nhân sâu xa của cái chết, không chỉ là do tình cảnh đói khổ, túng quẫn mà là do xuất phát từ lòng thương con âm thầm, sâu nặng xuất phát từ đức hy sinh cao cả của người cha. Một người cha dám đánh đổi cả sự sống của mình để dành dụm số tiền ít ỏi cho tương lai của con.

Thì ra, ẩn đằng sau vẻ già nua, khắc khổ tội nghiệp ấy là cả một trái tim lớn lao nồng hậu, âm thầm nhưng tha thiết, bền bỉ luôn cháy lên ngọn lửa của tình phụ tử thiêng liêng. Thì ra đức hy sinh không chỉ là “độc quyền” của người phụ nữ mà nhiều khi, sự hy sinh ấy ở nam giới, sâu sắc hơn rất nhiều. Thì ra, đôi khi ở những con người bình thường lại chứa đựng những phẩm chất phi thường. Chao ôi! Nếu có “Hậu Lão Hạc” thì anh con trai lão sẽ trở về, sẽ lấy vợ, sinh con, lão sẽ được sống những ngày cuối đời thật thanh thản hạnh phúc. Lão sẽ được phụng dưỡng chăm sóc, lòng hiếu thảo của con cháu sẽ sưởi ấm đời lão, sẽ xoá nhoà tất cả những vết thương đau.

Nhưng! Ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Hễ ai đọc Lão Hạc thì chẳng dễ gì quên được cái chết kinh hoàng của Lão: “Lão vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến 2 tiếng đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi và Binh Tư hiểu”.

Không! Không chỉ có ông Giáo và Binh Tư hiểu mà tất cả mọi người đều hiểu, đều đau đớn trước cái chết kinh hoàng ấy. Phương cách chết của lão là chết bằng bả chó, chết do trúng độc bả chó. Chúng ta vẫn tự hỏi ngàn lần rằng vì sao Lão Hạc không chọn một cái chết êm dịu hơn, nhẹ nhàng hơn, lặng lẽ hơn. Lý giải điều này, sách giáo viên Ngữ văn 8(Tập 1- trang 39, xuất bản tháng 5/2004) viết rằng: “Ông lão nhân hậu, trung thực này chưa từng lừa một ai, lần đầu tiên trong đời lão phải lừa là lừa “cậu vàng” “người bạn thân thiết của mình. Lão đã lừa để “cậu vàng” phải chết thì giờ đây lão cũng phải chết theo kiểu một con chó bị lừa”.

Nếu hiểu như vậy, thì chỉ là lớp nghĩa đầu. Bởi vì lão chết bằng bả chó là xuất phát từ dụng ý nghệ thuật của tác giả, khẳng định một điều rằng: Ông không muốn trốn tránh sự thật của cuộc sống, cũng không muốn tìm lối giải thoát có tính chất chủ quan, dễ dãi. Thời bấy giờ nhà văn Nguyễn Công Hoan nói rằng: “Tự lực văn đoàn nhìn khói mái nhà của người nông dân, còn tôi, tôi nhìn vào dạ dày của họ”. Vũ Trọng Phụng thì gọi việc lảng tránh những vấn đề cuộc sống là chạy xa sự thực bằng những từ điêu trá của văn chương “... như vậy là giả dối là tự lừa mình và di họa cho đời”.

Còn Nam Cao lặng lẽ khẳng định “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối nghệ thuật là những tiếng đau khổ toát ra từ những kiếp lầm than”. Và bằng cái chết của Lão Hạc, ta thấy Nam Cao đã chứng minh được điều đó. Nam Cao để cho Lão Hạc chết bằng bả chó tức là ông đã tôn trọng cái logic của sự thật cuộc đời. Vì chỉ có cái chết dữ dội ấy mới đủ sức tố cáo xã hội đương thời lúc ấy đã đẩy con người bất hạnh đến cùng đường tuyệt lộ, khiến họ phải chết một cách thê thảm đớn đau.

Ngoài ra Nam Cao muốn đề cập vấn đề nhân phẩm: dù phải trả giá đắt đến mấy, con người cũng phải giữ cho được phẩm chất của mình. Và Lão Hạc đã làm được điều đó. Dù túng quẫn nhưng lão không theo gót Binh Tư... Nhân tính đã chiến thắng bản năng, lòng tự trọng vẫn đủ sức giữ chân con người trước bờ vực của sự tha hoá. Lão thà chết chứ không làm điều sằng bậy. Đó là nét đẹp trong quan điểm đạo đức của nhân dân ta “chết vinh còn hơn sống nhục”.

Lão quằn quại nằm xuống nhưng nhân cách của lão còn mãi trong lòng độc giả. Đó cũng chính là ý nghĩa của cái chết Lão Hạc. Cái chết ấy khép lại câu chuyện và có rất nhiều người cho rằng, cái chết này ẩn chứa đâu đó hình bóng bi kịch: Đó là bi kịch của sự đói nghèo, bi kịch của tình phụ tử, bi kịch của phẩm giá làm người. Chính cái chết này góp phần làm rõ hơn quan điểm có phần cực đoan của Nam Cao: “Hạnh phúc là một tấm chăn hẹp người này kéo thì người kia hở”.

Nhưng xét một cách toàn diện thì cái chết ấy chưa hẳn là bi quan vì nó nói lên được niềm tin sâu sắc vào phẩm chất tốt đẹp ở người nông dân của tác giả. “Không! cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn. Mà nếu đáng buồn thì đáng buồn theo một nghĩa khác”.

Lão Hạc là một người nông dân chân lấm tay bùn chưa từng đọc sách thánh hiền, chưa từng được tham dự một lớp học nào về cách làm người, về tình phụ tử song cả cuộc đời lam lũ, lương thiện và trong sáng thanh cao của lão, cả cái chết kinh hoàng của lão- là minh chứng đầy đủ cảm động về nhân cách làm người, về tình cha con thiêng liêng sâu nặng.

3 tháng 9 2021

Đọc xong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, hẳn không ít người còn day dứt, dằn vặt và suy nghĩ về cái chết của lão. Chưa bao giờ ta lại thấy được rõ nét như lúc này về ranh giới giữa trắng và đen, giữa thị phi và đạo đức lại mỏng manh và nhập nhằng như lúc này. Cái chết của Lão Hạc là cái chết để nói lên tính cách, nhân cách của chính lão.

Lão Hạc là một nông dân nghèo, vợ lão chết để lại cho hai cha con lão một mảnh vườn, thằng con trai đã đến tuổi lấy vợ, nhưng vì nghèo quá không đủ tiền thách cưới. Con trai lão cũng vì thế mà bỏ đi làm đồn điền cao su năm hay sáu năm nay chưa thấy về. Lão Hạc đã tìm đến cái chết. Lão chết để lại cho mọi người sự bàng hoàng, xót xa. Có thể nói, lão chết vì đã nỡ lừa một con chó không? "Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó". Con chó đó được anh con trai lão mua về, khi anh đi làm thì để lại cho lão nuôi. Lão coi nó như một người bạn tri kỷ, một đứa con, đứa cháu tinh thần mà anh con trai để lại, khi ông nói chuyện với nó, ông gọi anh con trai là "bố cậu", thế nên ông đặt tên cho nó là "cậu Vàng". Có chuyện gì lão cũng kể cho cậu nghe, lão ăn gì, nó ăn nấy, có khi nó còn ăn nhiều hơn lão nữa. Vậy mà, lão quyết định bán nó. Nhưng quyết định bán cậu Vàng của lão đưa ra thật không dễ dàng chút nào. Lão đã nhắc đến chuyện này nhiều lần rồi, đến nỗi ông giáo "nghe câu ấy đã nhàm". Thế nhưng, lần này lão làm thật. Sau khi bán cậu Vàng không bao lâu, lão gửi mảnh vườn và tiền để lo ma chay của mình cho ông giáo. Lão tìm đến cái chết. Cái chết của lão thật đau đớn và kinh hoàng. "Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra. Khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, giật nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết." Lão chết như để trả nợ với cậu Vàng, vì lão đã nỡ nhẫn tâm lừa nó. Lão không chọn cho mình một cái chết nhẹ nhàng hay không đau đớn, vật vã mà ngược lại. Dường như lão muốn được cậu Vàng tha thứ. Bởi với lão, cậu Vàng như một đứa con, một người bạn tri kỷ, một kỷ niệm mà anh con trai để lại. Khi vừa bán chó xong, lão sang ngay nhà ông giáo và nói "Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!". Câu nói rất tỉnh táo, không hề có ý gì thương xót hay hối hận mà ngược lại, nó như có ý khoe khoang một việc gì đó. Vậy mà, chỉ sau đó một khoảnh khắc, Nam Cao đã tả ngay cho ta thấy "Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt dâng dâng nước". Và chỉ chờ một giọt nước, một tác động nhỏ là mọi cảm xúc, mọi kìm nén sẽ vỡ òa ra. "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc ..." , chỉ sau một câu hỏi của ông giáo. Và sau khi bán chó đi, tâm hồn lão dường như trống rỗng. Lão chết như để trả lời cho câu trách móc của con chó mà lão tưởng tượng ra.

Nhưng tất cả không chỉ có vậy, lão chết vì tình thương mà lão dành cho con trai quá lớn lao, không gì có thể thay thế được. Và lão chết cũng là để cho xã hội đương thời lúc đó thấy được cách họ đã dồn ép những người nông dân lao động nghèo đến đói cùng đói cực như thế nào. Anh con trai lão yêu một cô gái và muốn cưới làm vợ, nhưng nhà gái lại thách cao quá, lão không đủ tiền để trả. Vậy là anh đòi bán mảnh vườn mà mẹ anh đã "thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi" mới mua được, nhưng lão không đồng ý. Lão hết lời khuyên ngăn, cuối cùng thì anh con trai cũng ưng thuận nghe theo. Bởi quá nghèo khổ, anh con trai quyết tâm đi làm ở đồn điền cao su mong thoát khỏi cuộc sống cùng cực, tủi nhục lúc bấy giờ. Lão ở nhà cùng với cậu Vàng. Với tình yêu bao la dành cho con trai, lão tự làm thuê để kiếm ăn qua ngày, còn tiền hoa lợi của mảnh vườn thì để ra, gom góp cho anh con trai để anh có tiền cưới vợ, hoặc có vốn làm ăn. Nhưng thật là, người tính không bằng trời tính. "Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một trận đấy thôi. Một trận đúng hai tháng, mười tám ngày, ông giáo ạ!" Bao nhiêu tiền của tích góp bấy lâu của ông đội nón ra đi theo tiền thuốc men, tiền ăn uống. Lão đau lòng, xót ruột lắm. Lão lại lo cho anh con trai của lão, lão sợ làm gánh nặng cho con mình. "Tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao? ..." Lão luôn đặt con trai ở vị trí trên cùng, quan trọng nhất, luôn tìm mọi cách để tốt cho con mà không quan tâm, không suy nghĩ gì cho mình hết. Lão trăn trở, suy nghĩ và lão quyết định. Lão gửi nhờ ông giáo trông hộ mảnh vườn, bao giờ con trai lão về thì giao lại cho nó, lão còn hai mươi lăm đồng bạc với năm đồng bán chó nữa là tròn ba mươi đồng, lão vét sạch, gửi ông giáo để phòng lo ma chay cho mình không lại phiền đến bà con hàng xóm. Từ đó "Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món nấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc." Lão sống như thế nào cũng được, chỉ cần lão không làm phiền đến ai, không làm gánh nặng cho con trai mình là lão vui rồi. Tấm lòng của người cha là vậy đó, tất cả những gì tốt đẹp nhất đều dành hết cho con cái của mình. Tới cùng cực, lão không cầm cự nổi nữa, lão tìm đến cái chết như để giải thoát cho mình, giải thoát cho anh con trai và cũng là giải thoát cho cái xã hội nghèo nàn đương thời mà lão đang sống. Lão tính toán tất cả, làm tất cả mọi việc chỉ để cho con trai lão có cuộc sống tốt hơn.

Gấp trang sách lại ta thấy Lão Hạc là một người nông dân lao động nghèo khổ gần bùn nhưng lại chẳng hôi tanh mùi bùn, mà ngược lại, lão lại là một người cha hết mực, hết lòng vì con cái. Là một người nhân hậu, thương yêu loài vật, đó là cậu Vàng. Cái chết của lão chính là tiếng chuông cảnh tỉnh, đánh thức những ai đang lầm đường, lạc lối, không được vì cái ăn, cái hư danh trước mắt mà bán đi linh hồn, nhân cách, phẩm giá của mình.

mong tíck

2 tháng 9 2021

cây sồi già said : tao một mình nhưng rễ tao đông

truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”. Đó là tác phẩm nào ? Ghi rõ tên tác giả.Phần II (4,0 điểm) Đọc câu chuyện sau và thực hiện yêu cầu bên dưới :Sẻ chia từng chiếc khẩu trang Bạn đã nghe đến chuyện phát bánh mì miễn phí cho người nghèo hay những thùng trà đá miễn phí để bên đường. Hoặc những chai nước suối được chính các anh CSGT phát cho người dân trên những nẻo đường về quê ăn...
Đọc tiếp

truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”. Đó là tác phẩm nào ? Ghi rõ tên tác giả.

Phần II (4,0 điểm) Đọc câu chuyện sau và thực hiện yêu cầu bên dưới :

Sẻ chia từng chiếc khẩu trang Bạn đã nghe đến chuyện phát bánh mì miễn phí cho người nghèo hay những thùng trà đá miễn phí để bên đường. Hoặc những chai nước suối được chính các anh CSGT phát cho người dân trên những nẻo đường về quê ăn Tết. Thì trong mùa dịch, chính là những bịch khẩu trang được phát miễn phí khắp các ngõ phố từ Bắc vô Nam, không tỉnh nào là không có. Tại các công viên hay khu tập trung công cộng, bạn sẽ bắt gặp nhiều bạn sinh viên cầm trên tay những chiếc khẩu trang đi phát cho những người chưa có cơ hội mua được. Mọi người sẵn sàng chia sẻ khẩu trang khi bắt gặp người đang không có khẩu trang.. | Khi một số cửa hàng tăng giá khẩu trang, thì những cửa hàng khác lại không bán khẩu trang. Họ chỉ phát miễn phí. Người dân đến mua hàng hay đi qua có thể ghé qua tự lấy khẩu trang miễn phí nếu cần. Chỉ cần bước chân vào một hiệu thuốc, nhân viên sẽ hỏi bạn có cần khẩu trang không và tự động để khẩu trang vào túi cho bạn. Và tất nhiên đó là miễn phí.

(Trích Câu chuyện về tình dân tộc Việt mùa đại dịch từ virus Corona Câu 1 (1,0 điểm ): Xác định các phép liên kết câu có trong hai câu in đậm và ghi ra từ ngữ dùng làm phương tiện liên kết.

Câu 2 (1.0 điểm): Theo em, những việc làm của các bạn sinh viên và các cửa hàng có ý nghĩa như thế nào trong việc phòng chống dịch bệnh ? Qua câu chuyện người viết muốn gửi gắm điều gì ?

Câu 3 (2điểm): Từ văn bản trên, kết hợp những hiểu biết xã hội, hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 2/3 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của sự sẻ chia trong cuộc sống hôm nay.

 
0


Bằng sức mạnh riêng của nghệ thuật, nhà văn đã đưa nhân vật từ nơi u tối ra miền ánh sáng,. Đó chính là điều Nguyễn Dữ đã làm trong Chuyện người con gái Nam Xương vàNgười nghĩa phụ ở Khoái Châu. Có phải, đó chính là cái đẹp của văn chương?I. Về phương diện nội dung

1. Mối quan hệ hôn nhân

a. Chồng:

Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nhân vật Trương Sinh được giới thiệu:Trương Sinh có tính cả ghen, hay để tâm xét nét vợ, nhưng vợ chàng thường giữ gìn khuôn phép nên không có chuyện gì xảy ra.Vợ chồng hương đượm lửa nồng chưa được bao lâu thì bỗng nghe tin chốn biên thùy có giặc, chồng vâng lệnh quan phải từ giã mẹ và vợ đi lính thú

Qua cách giới thiệu này, ta thấy tác giả dân gian chỉ nói đến nhân vật Trương Sinh có đặc điểm hạn chế thường thấy của đàn ông là hay có tính ghen tuông và thường hay xét nét vợ mình, ngoài ra chàng không hề có một “ưu điểm” nào. Theo quan điểm Nho giáo cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì việc Vũ Thị Thiết gặp một người chồng như thế cũng không có gì gọi là may mắn. Xây dựng kiểu nhân vật có mỗi đặc điểm đơn điệu như thế, phải chăng tác giả dân gian chỉ dùng nó cho mục đích dẫn dắt tính tất yếu của bi kịch ghen tuông sau này?

Nhưng ở Chuyện người con gái Nam Xương, nhân vật Trương Sinh xuất hiện đầy đủ các mặt ưu và nhược điểm: Chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra triều đình bắt đi lính đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu.

Về ưu điểm, đó là chàng biết chọn vợ (mến vì dung hạnh) và sống có khuôn phép, tôn trọng mẹ (xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về). Và điều quan trọng, chàng Trương thuộc gia đình dòng dõi, phong lưu (con nhà hào phú). Còn nhược điểm, thứ nhất, cũng giống như truyệnVợ chàng Trương, Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Điều này thuộc bản tính tự nhiên, thường tình, rất người. Thứ hai, chàng không có học. Tuy không có học nhưng qua cách tìm vợ và phép tắc với mẹ, ta thấy chàng không phải không biết cách xử sự. Dù rằng, Trương Sinh không thật hoàn hảo, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, với Vũ Nương, nàng lấy được tấm chồng như thế cũng là quá may mắn. Hãy đặt trong sự so sánh với người phụ nữ cùng thời, nàng còn hơn bao kẻ khác. Biết bao người phụ nữ gặp hoàn cảnh đắng cay vẫn phải cắn răng mà chịu đựng:

- Bồng bồng cõng chồng đi chơi

Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng

Chị em ơi! Cho tôi mượn cái gầu sòng

Để tôi tát nước múc chồng tôi lên.

- Bữa cơm múc nước rửa râu

Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm

Đêm đêm dắt cụ đi nằm

Than thân phận gái ôm lưng lão già

Ông ơi, ông buông tôi ra

Kẻo người ta thấy, người ta chê cười.

(Ca dao)

Như thế, tuy chưa phải hoàn hảo, nhưng Trương Sinh vẫn có nhiều ưu điểm của người chồng để đáng được trân trọng. Thêm vào những chi tiết đề cao thế mạnh của chàng Trương như thế, hẳn Nguyễn Dữ có dụng ý riêng trong việc xây dựng nhân vật của mình.

b. Mẹ chồng

Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, hình ảnh mẹ chồng chỉ được gợi đến một cách rất mờ nhạt:Nhớ con sinh ra đau ốm. Vợ chàng Trương hết lòng mời thầy chạy thuốc, nhưng bệnh của mẹ chồng mỗi ngày một nặng, chẳng bao lâu thì mất. Nhờ có bà con xóm giềng, mọi việc tống táng đều lo liệu chu toàn. Ở đây, tác giả dân gian chỉ nói đến quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất mờ nhạt.

Còn trong Chuyện người con gái Nam Xương, hình ảnh mẹ chồng được khắc họa rất rõ nét ở những thời điểm:

- Khi tiễn Trương Sinh đi lính:Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng: “Tuy hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được”. Thêm vào chi tiết này, Nguyễn Dữ gợi dẫn cho người đọc nhận thức về một người mẹ có tầm hiểu biết.

- Khi sắp qua đời: Bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Từ lời trăng trối của mẹ chồng, ta nhận thấy mối quan hệ hai chiều trong tình cảm mẹ chồng – nàng dâu. Người mẹ thấu hiểu công lao và sự thơm thảo của con dâu trong miếng cơm miếng cháo, khi sống chết không khỏi phiền đến con. Điều này trong xã hội phong kiến rất hi hữu, thường là Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau (ca dao). Đặc biệt, mẹ chồng Vũ Nương đã đặt vào con dâu bằng tất cả niềm tin, hi vọng trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ. Liệu nàng có hiểu hết tấm lòng người mẹ chồng dành cho nàng Con dâu mới thật mẹ cha mua về (ca dao)? Trong Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả thêm vào lời thoại ở hai thời điểm như thế nên hình ảnh người mẹ chồng đã được nổi bật rất rõ ở nhiều khía cạnh khác nhau, đó cũng là lợi thế – giá trị tinh thần mà mấy nàng dâu gặp được trong xã hội bấy giờ. Đó không phải là điều có một không hai sao, khi ca dao đã từng nói:

Thật thà cũng thể lái trâu

Thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

Qua việc so sánh cách xây dựng mối quan hệ hôn nhân trong hai tác phẩm, ta thấy ý đồ của truyện cổ tích Vợ chàng Trương và Chuyện người con gái Nam Xương hoàn toàn khác nhau. Nếu như ở Vợ chàng Trương, tác giả dân gian xây dựng chi tiết này chỉ mang tính dẫn dắt cho sự tiếp diễn những sự việc sau, thì với Nguyễn Dữ, ngoài việc dẫn dắt, ông đã gợi cho người đọc nhận thức về hoàn cảnh Vũ Nương. Trong xã hội phong kiến khắt khe, có một hoàn cảnh đầy ưu thế như vậy, liệu Vũ Nương có ý thức được điều may mắn hiếm có ấy để phát huy trong cuộc sống hay không? Như thế, dùbi kịch đầu tiên của đời Vũ Nương mà chế độ phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, với tôn ti trật tự nghiêm ngặt đã tước mất quyền được chọn chồng của người phụ nữ, thì với nàng, điều may mắn đã đến. May mắn như thế, nhưng Vũ Nương có coi là quan trọng để biết cách gìn giữ, thì điều đó lại tùy thuộc vào ý thức, trách nhiệm của nàng trước cuộc sống.

Xây dựng mối quan hệ hôn nhân với nhiều điều may mắn hơn so với Vợ chàng Trương, phải chăng Nguyễn Dữ để người đọc thấy được một Vũ Nương có những ưu thế trong tay nhưng đã không biết phân biệt điều hơn, lẽ thiệt giữa đời nên dẫn đến việc lựa chọn cái chết đầy tính ích kỉ?

2. Bi kịch ghen tuông

Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nguyên nhân bi kịch ghen tuông được kể: Tối nào bố Đản cũng đến… Mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi…Chẳng bao giờ bố bế Đản cả…

Mấy lời nói vô tình của đứa bé làm cho Trương Sinh tin là vợ mình ngoại tình, không còn nghi ngờ gì nữa. Nghĩ đến người vợ trong tay kẻ khác, cơn ghen tự dưng bừng bừng bốc lên. Chàng lẩm bẩm: “Thật là quá rõ. Không ngờ trong khi mình gian lao thế ấy, thì nó ở nhà lại như thế kia”. Về đến nhà Trương Sinh mắng nhiếc vợ tàn tệ: “Tao không ngờ mày là đồ thất tiết. Mẹ chết, chồng đi vắng, tối rước trai về nhà”. Chàng mắng dữ dội nhưng không bảo là tự miệng con nói ra. Vợ chàng một mực chối cãi: “Cách biệt ba năm, thiếp vẫn một lòng một dạ, đâu có hư thân mất nết như lời chàng nói. Xin chàng đừng ngờ oan cho thiếp”. Vợ càng phân trần thì cơn giận của chồng càng không thể dằn xuống được nữa. Chồng bắt đầu dùng lối vũ phu để tra khảo vợ. Hàng xóm láng giềng nghe tin vợ chồng lục đục đổ tới can ngăn, nhưng chẳng ăn thua gì. Chồng cho là vợ khéo mồm khéo mép nên được lòng mọi người che lấp tội lỗi. Trong cơn phẫn uất, người thiếu phụ ôm lấy con khóc nức nở, rồi nhân lúc chồng sang nhà hàng xóm, chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước.

Bi kịch trong Vợ chàng Trươnglà Vũ Thị Thiết tìm đến cái chết trong sự bế tắc về tinh thần. Do cơn hoảng loạn không kiềm chế được, nên nàng đã đâm đầu xuống bến Hoàng Giang trong trạng thái tâm lí hoàn toàn vô thức. Một cái chết trong căng thẳng, ức chế thần kinh nên nàng không thể kiểm soát được hành động của bản thân. Tất nhiên, không phải người phụ nữ nào trong hoàn cảnh bị bạo lực đều mất tự chủ, không có khả năng bảo vệ bản thân như nàng. Tuy không làm chủ được tình thế để đến nỗi phải tìm cái chết, nhưng bản năng người mẹ không mất đi. Trước khi chạy ra bến Hoàng Giang, nàng vẫn nghĩ đến con. Một cái chết mang hiện tượng của bệnh lí không nằm trong chủ quan của nàng, thật đáng thương! Do cơn ghen mù quáng của Trương Sinh, Vũ Thị Thiết mới ra nông nỗi ấy. Vì thế, chính chàng Trương cũng phải chịu một phần trách nhiệm về cái chết của vợ. Bởi đến với cái chết như thế, nên những giá trị nàng có vẫn không hề mất đi. Đọc Vợ chàng Trương, đọng lại trong lòng người đọc là sự xót xa, thương cảm trước một số phận bi đát do hậu quả ghen tuông đưa lại

Cũng nói về bi kịch ghen tuông, Chuyện người con gái Nam Xương được Nguyễn Dữ thể hiện: Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.

Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng: “Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại dấu không kể lời con nói; chỉ lấy lời bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia, nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiến chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng, dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp cho mọi người phỉ nhổ”. Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết.

So sánh bi kịch ghen tuông trong hai tác phẩm, ta thấy điểm giống nhau đó là nguyên nhân dẫn đến bi kịch và hành động vũ phu của Trương Sinh đối với vợ. Còn điểm khác nhau, đó là cách xử sự của những người vợ trong việc tìm đến cái chết.

Khác với Vợ chàng Trương,trong Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã để nhân vật Vũ Nương tìm đến cái chết trong trạng thái tâm lí hoàn toàn bình tĩnh, một sự lựa chọn đầy chủ động.

Từ cái chết đầy sự bình tĩnh của Vũ Nương, ta thấy nàng có xứng đáng làm một người mẹ hay không? Một người mẹ như nàng, ngay cái tình mẫu tử tự nhiên cũng không hề có. Chưa nói con người, trong thế giới động vật, thuộc tính tự nhiên của mẹ – con cũng thể hiện rất rõ. Để nói về thuộc tính tự nhiên của tình mẫu tử, câu chuyện dân gian A - Nhi thần lửa đã có cách lí giải rất thú vị. Chuyện kể về năm mẹ con chim đầu rìu bị đe dọa tính mạng bởi một đám cháy bất ngờ. Người mẹ sẵn sàng đón nhận cái chết, đã xòe cánh để bảo vệ các con. Các con không chấp nhận giải pháp này và chúng đưa ra lí lẽ: nếu mẹ chết thì các con cũng sẽ bị chết đói, chết khát. Và điều quan trọng là mẹ sống để duy trì nòi giống. Không thuyết phục được mẹ, bốn chú chim non dọa đâm đầu vào lửa. Chim mẹ bất lực, đành phải bay đi. Còn lại bốn anh em, chúng chụm đầu kêu cứu thần lửa. Thương tình, thần lửa kịp thời đến giải vây. Chính chi tiết này gợi lên suy nghĩ: tình mẫu tử dù được can thiệp bằng lí trí, nhưng cuối cùng phải trả về thuộc tính tự nhiên, bản năng nhất. Vậy nhưng với Vũ Nương, phần bản năng của người mẹ, nàng cũng không hề có. Một người mẹ chỉ vì sự nghi ngờ của chồng mà sẵn sàng tìm đến cái chết, bỏ đứa con thơ dại đã mấy năm quấn quýt, chăm bẵm. Một sự lựa chọn mà thế gian này không phải ai cũng làm được như nàng. Một người mẹ trong phút giây tử biệt mà không một chút nào vương vấn tới con, như trong lòng chưa hề có con vậy. Thật lạ lùng về một người mẹ trong tỉnh táo đã rảnh rang ra đi như chưa làm mẹ bao giờ. Từ điều này, ta có quyền nghĩ rằng, Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương không xứng đáng làm mẹ. Thật đáng tiếc bởi tạo hóa ban tặng cho người phụ nữ thiên chức làm mẹ, vậy nhưng với Vũ Nương, nàng đã tự tước bỏ. Nàng đến với cái chết không phải do nóng giận mất khôn mà đó là sự lựa chọn của nàng sau khi đã suy nghĩ kỹ , đó mới là điều đáng sợ nhất của Vũ Nương. Để Vũ Nương suy nghĩ kỹ mới lựa chọn cái chết, Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật theo kiểu tâm lí, không còn là nhân vật chức năng như trong Vợ chàng Trương. Xây dựng hình ảnh một người mẹ suy nghĩ kỹ – là con người của ý thức nhưng vẫn cư xử với con như thế, Nguyễn Dữ đang hướng người đọc nhìn nhận về cách giải quyết bi kịch của Vũ Nương. Chỉ vì lựa chọn sự tròn trịa của mình mà nàng sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, ngay cả tình mẫu tử thiêng liêng nhất. Tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương, có ý kiến đã không đồng tình trong việcchê trách, thậm chí phê phán nàng ích kỷ, vô cảm . Chưa nói việc nhìn toàn cục tác phẩm, chỉ mới nhìn nhận ở khía cạnh tình mẫu tử, thì việc chê trách, thậm chí phê phán nàng ích kỷ, vô cảm ắt sẽ không tránh khỏi, bởi nó nằm trong dự đồ xây dựng nhân vật của Nguyễn Dữ.

Cái chết đầy sự bình tĩnh của Vũ Nương khiến ta suy ngẫm về bổn phận làm dâu của nàng. Khi Trương Sinh đi vắng, nàng tận tụy chăm sóc mẹ ốm,hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Rồi mẹ mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình. Vậy tại sao chỉ vì sự hiểu lầm của Trương Sinh, nàng đã không còn màng đến lời trối trăng của mẹ trong sự khao kháttrời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con? Nếu là người dâu hiếu thảo, thì ít ra nàng cũng trăn trở day dứt về ước nguyện của người mẹ chồng trước khi trút hơi thở cuối cùng còn mong điều tốt đẹp cho mình. Sâu xa hơn, nếu người dâu hiếu thảo, biết con trai mẹ đang sai lầm, bế tắc thì tìm cách mà hóa giải, để đem phúc đức lại cho gia đình mẹ. Nếu một người con dâu thực sự hiếu thảo, chưa nói con cháu đông đàn sau này, chỉ mình bé Đản hiển hiện giữa đời cũng phải cam tâm bỏ qua tất cả để níu kéo sự sống mà nuôi dưỡng nó. Nếu một người con dâu thực sự hiếu thảo, khi được họ hàng làng xóm bênh vực, tin yêu, hẳn nàng sẽ không phụ lòng mọi người như thế. Vậy nên, Vũ Nương chỉ là nàng dâu hiếu thảo khi mọi điều đang diễn ra theo chiều thuận của nó. Nếu chỉ nhìn một chiều, thì quả thật, chừng đó đã đủ cho nàng thành gương sáng của đạo hiếu . Nhưng cuộc sống vốn muôn sắc màu, khi đặt Vũ Nương vào chiều nghịch của nó, nàng đâu bộc lộ được phẩm chất người con dâu thùy mị, nết na. Tỉnh táo trong lựa chọn cái chết, nhưng Vũ Nương lại không dùng sự tỉnh táo đó để nghĩ về bổn phận làm dâu trong niềm tin yêu của mọi người, trong sự so sánh hơn thiệt mình đang có. Tại sao? Bởi vì cơn nư của nàng đang trỗi dậy, lấn át đi mọi thứ.

Từ cái chết đầy sự bình tĩnh của Vũ Nương, ta thấy nàng có thực sự yêu thương chồng không?

Đọc Chuyện người con gái Nam Xương, ta không phủ nhận tình yêu thương của nàng dành cho chồng. Ngay trong buổi tiễn đưa chồng, dù chàng Trương chưa xa, mới chỉ sắp xa mà nàng đã nói những lời tràn đầy yêu thương, nhung nhớ khiến cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Trong những đêm xa chồng, cuộc sống của nàng và con thơ cô quạnh, nỗi nhớ càng đốt cháy tâm can, “nàng thường hay đùa với con, trỏ bóng mình trên vách mà bảo là cha Đản”. Giá như tình yêu thương đó song hành cùng thời gian với những thử thách, biến cố giữa cuộc đời thì quả thật là điều đáng trân quí! Nhưng tiếc thay, tình yêu đó cũng chỉ là thứ tình cảm bình thường như bao người vợ trong hoàn cảnh chiến tranh li tán. Duy chỉ một điều là những người vợ khác, khi chồng về, đối mặt với muôn vàn thử thách về vật chất và tinh thần, họ đều nhẫn nhịn vượt qua để bảo tồn cuộc sống theo mẫu người phụ nữ phong kiến, chứ chẳng ai xử sự “hiện đại” như nàng. Nàng đâu phải là người phụ nữ không khôn ngoan, hiểu biết. Ngày tiễn chồng, nàng đã biết lựa chọn hai chữ bình yên chứ không phải là mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, bởi đến được vinh hoa, mạng sống của chồng sẽ phải đặt trên bàn cân sống/chết. Đặc biệt, nàng ý thức được Bổn phận hàng đầu của người vợ là chung thủy, tiết hạnh. Hoàn cảnh đã thử thách và minh chứng lòng chung thủy, tiết hạnh của nàng , như thế, nàng đâu dại dột gì. Khôn ngoan, hiểu biết đến thế nhưng sao nàng không đưa lợi thế ấy vào để giải quyết bi kịch ghen tuông với mục đích cứu vớt chồng khi mắc sai lầm? Bài toán ghen tuông này, với nàng, trong trạng thái hoàn toàn tỉnh táo, nếu chú trọng vào nó thì không thể không có cách hóa giải. Vì sao? Bởi bi kịch của nàng chỉ đang là sựbóng gió qua lời nói chứ đâu phải là chứng cớ. Với tầm hiểu biết của Vũ Nương, lẽ nào nàng không hiểu câu cửa miệng “dâm tang gian tích” trong dân gian thường dùng hay sao? Ai cũng tin nàng, trừ Trương Sinh. Mà Trương Sinh thì chỉ nói chứ không đưa ra chứng cứ. Nếu cần chứng cứ thì đã có trong tay Trương Sinh. Nếu Vũ Nương thương chồng, tìm cách tháo gỡ bế tắc thì bài toán này lẽ nào không có đáp án. Thực chất nàng đã không có ý thức giải cứu trước sai lầm của chồng thì sao gọi là thương chồng được. Nếu thương chồng thực sự, thì không để chồng cảnh “gà trống nuôi con”, và hơn thế, sinh con cháu đông đàn cho gia đình chồng như người mẹ trước khi qua đời còn nguyện ước. Sâu xa hơn, nếu thương chồng thì trong khi bình tĩnh, nàng đã không chọn cái chết. Bởi nàng chết, hình ảnh chồng nàng – nhưng cũng là cha của bé Đản, con nàng sẽ như thế nào trong mắt mọi người? Bình tĩnh để chọn cái chết như thế, Vũ Nương đâu phải kiểu phụ nữ thùy mị, nết na, đâu phải kiểu người phụ nữ thực sự yêu thương chồng mà sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách trong cuộc sống. Tìm hiểu bi kịch ghen tuông, có ý kiến cho rằng:Lẽ ra bé Đản - người phát ngôn của thông tin tày trời nọ - phải được xét hỏi “ba mặt một lời” để vãn hồi sự câu thông cần thiết giữa hai vợ chồng. Không ai hỏi đến, Đản lặng thinh như chưa từng nói ra chi tiết oan khiên nọ. Đản, nhân chứng cuối cùng, giờ như một kênh thông báo vô hiệu hóa, tắt sóng lặng câm”

. Quả thật, để cho Đản, nhân chứng cuối cùng, giờ như một kênh thông báo vô hiệu hóa, tắt sóng lặng câmnhư thế, Nguyễn Dữ đã tạo nên tính kịch tính về bi kịch ghen tuông. Đó cũng là ý đồ của ông trong việc dẫn dắt người đọc nhận thức về nhân vật Vũ Nương một cách sâu sắc nhất. Với nàng, lớn hơn tất cả tình yêu thương là cơn nư đang mỗi ngày bốc hỏa! Bởi thế, đâu phải thái độ ghen tuông cay nghiệt và mù quáng của chàng Trương đã giết chết người vợ đoan chính đáng thương .

Từ cái chết đầy sự bình tĩnh của Vũ Nương, ta thấy có phải Vũ Nương đang tìm cho mình cái danh dự hão?

Cái chết của Vũ Nương không phải không tìm được sự đồng cảm: Khi lựa chọn chết chứ không tiếp tục sống trong sự nghi ngờ, phải mang tiếng là thất tiết, chứng tỏ nàng coi danh dự, phẩm giá cao hơn cả sự sống. Vì danh dự nàng hy sinh sự sống mà mỗi người chỉ có được một lần . Trong cuộc sống, có những tình huống con người phải đặt ra sự lựa chọn coi danh dự, phẩm giá cao hơn cả sự sống. Với Vũ Nương, nếu vì danh dự nàng hy sinh sự sống thì đáng quí biết chừng nào. Nhưng suy xét bản chất vấn đề, danh dự nàng có mất đi đâu. Về chủ quan, hơn ai hết, nàng biết mình cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Về khách quan,họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng. Vậy nút thắt danh dự của nàng nằm ở chỗ Trương Sinh. Mà Trương Sinh lại là một kẻ có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Chỉ mấy lời bóng gió của một kẻ như thế mà Vũ Nương coi mình bị mất danh dự hay sao? Trên thế gian này, từ cổ chí kim, chỉ vì lời nói bóng gió mà tự vận vào mình là bị mất danh dự, thì hẳn không mấy ai còn danh dự. Quả thực là người trọng danh dự, thì Vũ Nương, bằng sự khôn ngoan hiểu biết của mình phải tìm cách mà lấy lại danh dự chứ. Nếu nàng bình tĩnh trong cái chết (biết tắm gội chay sạch, biếtxin làm ngọc Mị Nương, cỏ Ngu mĩ), thì sao nàng không nghĩ đến việc chờ thời gian tìm ra chứng cứ, bởi nó ở ngay Trương Sinh chứ đâu phải việc “mò kim đáy bể”. Mà nếu nàng không lấy được chứng cứ ở Trương Sinh thì còn họ hàng, làng xóm, và cao hơn nữa còn có pháp luật. Xét cho cùng, với Trương Sinh, sự mù quáng của chàng còn có lí (bởi từ lời con trẻ), chứ sự mù quáng của Vũ Nương thì không còn giới hạn. Vì sao? Vì cơn nư thúc đẩy, nàng vội vã chứng minh cho sự tròn trịa của mình mà bất chấp tất cả. Bởi thế, cái danh dự nàng cần chỉ là thứ danh dự hão. Về điều này, tác giả đã xây dựng tình tiết trong truyện rất thống nhất. Giả sử cứ cho nàng mất danh dự, thì theo yêu cầu của nàng, khi Trương Sinh lập đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang thì chẳng phải danh dự nàng đã được trả lại gấp bội hay sao? Vậy nhưng nàng vẫn đâu cần đến. Không tìm đâu xa, trong thời đại của nàng, có những người vì danh dự đích thực, họ phải sống và chờ đợi bằng cả đời người để chứng minh. Làm phép so sánh giữa nhân vật Vũ Nương và Thị Kính, ta thấy Thị Kính gần như không có chút lợi thế nào. Xét về mức độ oan trái, thì tội giết chồng còn mất danh dự lớn gấp bao nhiêu lần tội thất tiết. Vậy nhưng Thị Kính cũng đâu tìm con đường chết. Nếu như Vũ Nương chỉ nằm trong hoàn cảnh bị Trương Sinh nóibóng gió, còn khi cần chứng cứ, thì tự khắc nó trở thành lợi thế để hóa giải. Và thực tế, chỉ một thời gian rất ngắn, mối nghi ngờ đã được chứng minh. Còn Thị Kính, nhân chứng, vật chứng sờ sờ ra đó, làm sao chối cãi. Dù nàng lựa chọn con đường đi tu, nhưng cho đến chết, tội giết chồng cũng đâu được hóa giải. Vì thế, tác giả dân gian đã bằng cách cho Thị Mầu gieo oan,khẳng định sự trong sạch này để chứng minh cho oan trái kia nhằm đưa lại cái hậu cho Thị Kính. Danh dự đích thực của Thị Kính phải đánh đổi bằng cả đời người chứ đâu chỉ ngày một ngày hai. Còn như Vũ Nương, khi chồng nóng giận đã được một cộng đồng người bên cạnh chở che, ôm ấp, vậy nhưng bỏ qua những điều quí giá, nàng đã vội tìm đến cái chết. Trong khi đó, Thị Kính, dù bế tắc đến tận cùng cũng tìm cho mình lối thoát tích cực, một lối thoát ít ra thì cũng giữ gìn hình hài cha mẹ ban cho. Bởi thế, không thể biện hộ cho Vũ Nương rằngkhông có lựa chọn nào khác .

Qua phân tích bi kịch ghen tuông trong Chuyện người con gái Nam Xương, ta nhận thấy Nguyễn Dữ đang gợi cho người đọc những suy nghĩ, đánh giá về nhân vật Vũ Nương một cách công bằng, khách quan nhất. Đặt trong sự so sánh về cách xây dựng nhân vật của hai tác phẩm ở bi kịch ghen tuông, người đọc dễ nhận thấy dụng ý hoàn toàn khác nhau. Nếu như ở Vợ chàng Trương, Vũ Thị Thiết đứng trước oan trái không thể làm chủ được nên đã tìm đến cái chết để giải thoát bản thân thì ở Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương đứng trước oan trái vẫn bình tĩnh, chủ động trong việc lựa chọn cái chết để chứng minh sự hoàn hảo của mình và trừng phạt chồng theo cách của người đàn bà vì to nư mà sẵn sàng rũ bỏ tất cả. Có phải bằng cách xây dựng nhân vật theo cách rất độc đáo của mình, từ cái chết của Vũ Nương, Nguyễn Dữ gợi ý cho người đọc tìm hiểu mặt trái bản tính thùy mị, nết na của nàng, để từ đó có cái nhìn lí tính hơn về nhân vật này?

II. Về phương diện nghệ thuật

1. Cách xây dựng hình ảnh chiếc bóng

Ở tác phẩm Vợ chàng Trương, chiếc bóng xuất hiện hai lần theo thứ tự thời gian. Lần thứ nhất: Có những hôm phải chong đèn khâu vá dọn dẹp và nô đùa với con. Những lúc con khóc nàng thường chỉ vào bóng của mình trên vách mà bảo: “Nín đi con! Kìa, kìa bố đã về. Đấy! Đấy!”. Đứa bé nhìn vào bóng, nín bặt. Cứ như thế, lâu dần thành thói quen. Thằng Đản thường đòi gặp bố trước khi đi ngủ. Cái bóng đen đen trên tường từ đấy đối với cả mẹ lẫn con như một người thân thích. Lần thứ hai: Tối lại, thằng bé khóc. Trương Sinh thắp đèn dỗ cho con nín. Chợt thằng bé kêu lên: “Ồ, bố Đản đã đến kia kìa!”. Trương Sinh hỏi: “Đâu con”. Nó trỏ vào bóng chàng trên vách mà nói: “Đấy! Đấy!”. Ở tác phẩm dân gian, chiếc bóng đã được nói đến ở lần thứ nhất, trong câu chuyện hai mẹ con, vì thế nên khi bé Đản kể với bố về người đàn ông xuất hiện mỗi tối, người đọc đã hiểu ngay vấn đề của mối nghi ngờ từ chỗ cái bóng. Cũng vì thế, tình tiết truyện không tạo nên sự gay cấn cho người đọc.

Nhưng với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã cắt bỏ ở Vợ chàng Trương chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất, nên tạo cho người đọc hồi hộp khi dõi theo câu chuyện để xem mấu chốt bi kịch như thế nào. Mãi đến khi kết thúc truyện, người đọc mới bất ngờ nhận ra nỗi oan của Vũ Nương bắt đầu từ cái bóng. Chính cách xây dựng hình ảnh chiếc bóng thay đổi như thế, tác phẩm đã tạo nên sự dồn nén tâm lí cho độc giả. Tính kịch tính của bi kịch đã tăng độ hấp dẫn cho câu chuyện.

1. Thay đổi kết cấu

Ở Vợ chàng Trương, kết cấu truyện đơn giản. Các sự việc được sắp xếp theo trật tự thời gian nên không gây sự bất ngờ cho người đọc. Truyện được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn thường gặp ở mô tip truyện cổ tích: Chàng nhận ra nỗi oan tày trời của vợ chỉ vì lòng ghen tuông nóng nảy của mình.

Nhưng đã muộn mất rồi, còn làm gì được nữa. Chàng chỉ còn biết ngày ngày ẵm con nhìn xuống dòng sông mà khóc.

Từ đó chàng ở vậy nuôi con không lấy vợ khác.Về sau người ta dựng ở bến Hoàng-giang một cái miếu thờ nàng Vũ Thị Thiết, quen gọi là miếu Vợ chồng Trương

Chính kết cấu này đã tạo nên một kết thúc có hậu. Chàng Trương đã hối hận về hành động của mình. Không chỉ nỗi oan của Vũ Thị Thiết được sáng tỏ, mà trong lòng Trương Sinh mãi mãi có nàng. Và điều đặc biệt hơn nữa, phẩm chất nàng đã được đề cao trong lòng người bằng tất cả sự tôn thờ.

Còn ở Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã thêm vào chi tiết li kì, tạo nên kết cấu hoàn toàn khác so với Vợ chàng Trương. Với lối sử dụng kết cấu mở, Nguyễn Dữ đã gợi cho người đọc bao suy ngẫm và cũng là cách tác giả khẳng định ý đồ bộc lộ tư tưởng chủ đề của Chuyện người con gái Nam Xương khác Vợ chàng Trương.

Câu chuyện li kì nơi thủy cung mở ra, cũng là thêm một lần tác giả đề cao vị thế của Vũ Nương trong xã hội nhằm chứa đựng hàm ý trong cách xây dựng nhân vật của tác giả. Từ góc nhìn của người hàng xóm Phan Lang nơi thủy cung, nàng là người phụ nữ quyền quí. Như thế, vị thế cao sang của nàng trong gia đình, dòng tộc và xã hội, – niềm mơ ước của bao người, dù có sang thế giới khác vẫn không hề mất đi. Bằng sáng tạo nghệ thuật, tác giả đã làm nên sự thống nhất từ cách thêm những chi tiết trong mối quan hệ hôn nhân của nàng. Chỉ trong Chuyện người con gái Nam Xương, nàng mới được làm vợ, làm dâu trong một gia đình dòng dõi. Từ chỗ vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, nhưng nơi nàng nương tựa không phân biệt đối xử, điều thường thấy trong xã hội phong kiến luôn coi trọng “môn đăng hộ đối”. Nơi nàng nương tựa có người chồng biếtmến vì dung hạnh nàng, đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Nơi nàng nương tựa có một người mẹ chồng dù trước khi trút hơi thở cuối cùng vẫn nuôi hi vọng vào đức hạnh con của con dâu sẽ đem lại giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Từ chỗcon nhà nghèo khó được nâng lên địa vị cao sang với nhiều điều may mắn khác, sao nàng không biết cộng trừ nhân chia trong cái được, cái mất để nhận ra đâu là phần hơn, kém, đích thực của giá trị cuộc sống? Chuyện xảy ra, để hả cơn nư của mình, nàng chỉ bám vào lỗi chồng để đổ vạ, trừng phạt mà không biết trân trọng, quí giá những thứ mình đang có. Bởi thế, ngay việc nâng nàng lên tầm quyền quí qua tên gọi Vũ Nương rồi để nàng xử sự như vậy, Nguyễn Dữ đã hướng người đọc nhận thức về một kiểu dạng người vợ to nư trong cuộc sống, vì một biến cố đã sẵn sàng đánh đổi mọi thứ mà không hề nuối tiếc.

Câu chuyện li kì nơi thủy cung mở ra, qua cuộc trò chuyện với Phan Lang, ta thấy một người mẹ cạn tình đến mức không dành một chút quan tâm sau chót cho con. Có phải để tập trung vào chủ đề, truyện xây dựng hình ảnh người đàn bà to nư và chỉ biết đến hận thù mà từ khi xuất hiện bi kịch, Nguyễn Dữ không để cho Vũ Nương một lần nhắc đến đứa con thơ dại? Có phải cơn nư và sự thù hận trong mỗi con người đã giết đi tất cả mọi thứ, kể cả tình mẫu tử thiêng liêng?

Từ câu chuyện li kì nơi thủy cung, ta thấy cái đẹp cũng không cảm hóa được tâm hồn Vũ Nương. Tác giả xây dựng cho nàng một cuộc sống ở thủy cung hoàn mĩ.Nơi ấy, nàng là một trong số những mĩ nhân, quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ đầy sang trọng được tham gia trong những cuộc yến tiệc quan trọng. Nơi ấy đã đáp ứng mọi điều kiện thuận lợi nhất theo ý muốn của nàng. Hình ảnh nàng xuất hiện khi trở về bến Hoàng Giang Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông như một nữ hoàng. Được đề cao đến mức ấy, nhưng cái đẹp vẫn không đủ sức cảm hóa nàng. Nàng đã sống trong sự lừa dối. Khi không muốn về lại nhân gian, nàng đã trả lời với Trương Sinh: Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa. Lời này thật mâu thuẫn với ý định của nàng trước đó. Khi mới gặp Phan Lang ở thủy cung, trong cuộc trò chuyện, Phan Lang khuyên: “Nương tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước. Nay thóc cũ không còn, thóc mới vừa gặt, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?”. Vũ Nương nói: “Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa”. Trong thâm tâm, nàng không về vì đang ôm mối hận chàng Trương chứ đâu phải vì đức Linh Phi! Rồi nàngquả quyết đổi giọng mà rằng: “Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiến xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Sao đã thề sống chết cũng không bỏ, vậy mà giờ nàngtất phải tìm về có ngày? Vậy ra, nàng đã sống không thủy chung với lời thề ấy! Nàng đã lừa dối Linh Phi, người cho nàng thêm một lần sự sống.Với những biểu hiện ấy, ta thấy rằng, đối với nàng chẳng có gì là đáng quí, thiêng liêng. Rồi nàng tiếp tục lừa dối, gieo hi vọng cho Trương Sinh. Khi gửi tín vật cho Phan Lang, Vũ Nương dặn: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”. Nàng đã trở về, nhưng chỉ đủ cho người đời nhận thấy trong tiếc nuối rồi nhanh chóng biến mất trước sự ngỡ ngàng, bất ngờ! Sao nàng lại gieo hi vọng cho Trương Sinh và cướp đi niềm hi vọng ấy trong một con người đã biết ân hận, sám hối, chờ đợi, khao khát đúng kiểu của con người?(Vũ Nương, nhìn nhận và suy xét – Cùng tác giả). Tại sao nàng lừa đối Linh Phi và Trương Sinh như vậy? Có một sự giằng níu trong tâm lí và cuối cùng nàng đã quyết định chọn lựa ở lại thủy cung. Với quyết định ấy, cái ảo thực sự chiến thắng. Nguyễn Dữ đã xây dựng chi tiết ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương một cách rất thống nhất và logic. Một người không chấp nhận thử thách trước hiện thực cuộc sống, nên khi vắng chồng nàng chỉ ôm một cái bóng – ảo ảnh để khỏa lấp chỗ thiếu vắng tinh thần.Đến khi đứng trước bi kịch ghen tuông, với Vũ Nương, thời gian là thước đo phẩm hạnh, nhưng do vội vã và thiếu hiểu biết triết lí sống dân gian về luật nhân quả, kèm theo ý thức sống nương nhờ, sống ảo nên trước thực tế cuộc sống khi phải đối mặt với thử thách nàng đã không nhẫn nhịn để vượt qua (Vũ Nương, nhìn nhận và suy xét – Cùng tác giả). Vừa phát triển cốt truyện có sẵn, vừa sáng tạo thêm chi tiết li kì nối tiếp, Nguyễn Dữ cho ta thấy, với Vũ Nương, nàng chỉ sống phù hợp với cái ảo. Vì thế, với nhận xét: Trong những đêm xa chồng, cuộc sống của nàng và con thơ cô quạnh, nỗi nhớ càng đốt cháy tâm can, “nàng thường hay đùa với con, trỏ bóng mình trên vách mà bảo là cha Đản”. Chỉ là để trả lời câu hỏi ngây thơ của con, cũng để cho vơi nỗi nhớ, chứ đâu phải nàng sống ảo như ai đó đã phê phán nàng , chứng tỏ người viết chưa hiểu hết ý đồ của Nguyễn Dữ trong việc xây dựng nhân vật. Ta không có quyền chủ quan phê phán nàng sống ảo, chẳng qua cách xây dựng tình tiết truyện rất khách quan trong tác phẩm đã nói lên điều đó.

Từ câu chuyện li kì của Nguyễn Dữ, ta nhận thấy một chàng Trương, vẫn có lúc nóng giận nhưng đã hết lòng trong việc chuộc lại lỗi lầm. Dù chỉ qua tín vật và khâu trung gian, nhưng chàng sẵn sàng lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang để vợ trở về theo lời dặn. Làm điều ấy, Trương Sinh ắt phải đối mặt với họ hàng, bà con xóm làng, có nghĩa chàng sẵn sàng từ bỏ sĩ diện, mặc cảm, bảo thủ – điều ít xảy ra trong chế độ phong kiến nam quyền. Nếu như ở Vợ chàng Trương, chỉ có mỗi mình chàng Trương biết nỗi oan của nàng, thì ởChuyện người con gái Nam Xương, với thời gian và không gian ấy, danh dự của nàng được trả lại giữa sự chứng giám của trời cao, đất rộng. Vậy nhưng nàng không về, bởi nơi nhân gian, là cuộc sống con người, nàng sẽ không tránh khỏi những thử thách. Mà nếu trở về, gặp thử thách, nàng sẽ tiếp tục xử sự như thế. Từ việc Trương Sinh lập đàn tràng, ta nhận ra một nghịch lí trong cuộc sống. Người được coi là thùy mị, nết na như Vũ Nương, khi đối mặt với thử thách không có ý thức vượt qua, trái lại đã trở nên vô cảm và tàn nhẫn. Còn một người ít học, vũ phu như Trương Sinh, khi xảy ra sai lầm đã có ý thức sửa mình, sẵn sàng vượt qua bản thân để hướng tới điều tốt đẹp. Phải chăng tác phẩm đang nhắc chúng ta phải có cái nhìn khách quan trong việc đánh giá nhân vật?

Xây dựng câu chuyện li kì nơi thủy cung, tác giả đã tạo nên một kết thúc mở cho truyện. Một Vũ Nương đã từng biết lễ bái thần phật mà sao nàng không sợ luật nhân – quả? Hẳn rằng sự lừa dối và cạn tình của nàng sẽ làm cho hình ảnh nàng trong lòng chàng Trương mất đi. Với Nguyễn Dữ, bỏ chi tiết dựng miếu thờ ở bến Hoàng Giang ở nguyên tác cũng là cách ông bày tỏ thái độ rất rõ rệt đối với nhân vật Vũ Nương.

Xây dựng Chuyện người con gái Nam Xương với kết cấu như thế, truyện đã hấp dẫn người đọc bởi những tình tiết bất ngờ thú vị. Điều sâu xa hơn, Nguyễn Dữ đã để cho độc giả nhận thức về một loại hình nhân vật rất gần gũi trong cuộc sống. Người đọc nghĩ gì về cách xây dựng nhân vật của tác giả ở phần giới thiệu ban đầu (Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp) và ở phần kết thúc truyện, khi có cơ hội tốt đẹp để trở về cuộc sống nhưng sẵn sàng chối bỏ (Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất)? Qua tìm hiểu chi tiết li kì ở thủy cung trong Chuyện người con gái Nam Xương thì ý kiến của Nguyễn Nam: chính phần sau ấy (trong đó nàng Vũ thác thiêng thành thần) là cơ sở cho việc thánh hóa người thiếu phụ nhân bản này, tạo cho nàng một thần phả với gốc tích tiên nương .

Phần sáng tạo có tính hoang đường ấy ngoài việc tăng hấp dẫn cho câu chuyện, còn chuyển tải được ý đồ của nhà văn về cái gọi là kết thúc có hậu liệu có phản ánh đúng ý đồ sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ?

Tìm hiểu mối liên hệ của hai tác phẩm, ta thấy nhân vật Vũ Thị Thiết trong Vợ chàng Trương đã để lại sự thương cảm cho bao người. Và không phải ngẫu nhiên mà trong truyện Vợ chàng Trương, tác giả dân gianđã kể về cái miếu thờ vợ chàng Trương. Còn đọc Chuyện người con gái Nam Xương, người đọc dễ bị đánh lừa cái vỏ bọc thùy mị, nết na của Vũ Nương.Ta không thể hoàn toàn phủ nhận nàng, bởi nhân vật Vũ Nương vẫn có đầy đủ yếu tố công, dung, ngôn, hạnh nhưng chỉ biểu hiện một cách mờ nhạt trong đời thường phẳng lặng, bình yên (Vũ Nương, nhìn nhận và suy xét – Cùng tác giả). Mỗi thử thách, chướng ngại trong cuộc sống là câu chuyện thường nhật của con người, nàng không có ý thức đối mặt với nó thì chỗ nhân gian cũng chẳng thể có chỗ cho nàng. Phải chăng sáng tạo Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đang dẫn dắt chúng ta có một cái nhìn đa chiều trong đánh giá nhân vật. Cùng một bi kịch ghen tuông, cùng một cái chết như nhau, nhưng trạng thái tâm lí trong xử lí tình huống khác nhau sẽ làm bản chất sự việc hoàn toàn thay đổi. Thay bằng sự tôn thờ (miếu thờ vợ chàng Trương), người đọc ám ảnh về hình ảnh một Vũ Nương, vì cơn nư của mình đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự thiêng liêng của tình mẫu tử. Dựa vào cốt truyện có sẵn rồi nhào nặn lại thành câu chuyện riêng của mình, Chuyện người con gái Nam Xương luôn gây cảm hứng cho người đọc. Bỏ qua sự hời hợt để tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương một cách thấu đáo nhất, việc đánh giá theo hướng lên án nhân vật này xem ra cũng có lí. Bởi, hơn gì hết, cách thức sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ sẽ giúp ta có một cái nhìn bản chất về hướng đánh giá nhân vật trong tác phẩm của ông. Đọc Chuyện người con gái Nam Xương, đôi khi chúng ta, vì chính “cái bẫy phi logic” trong sáng tạo nghệ thuật của tác giả mà nhìn nhận nhân vật theo cái nhìn cảm tính.

Tìm hiểu cách xây dựng Chuyện người con gái Nam Xương, đặt trong sự so sánh với Vợ chàng Trương, ta thấy cùng chung một cốt truyện nhưng mỗi tác phẩm lại có một cách lí giải khác nhau. Ở truyện dân gian nói chung và Vợ chàng Trươngnói riêng, cốt truyện thường đơn giản, phạm vi phản ánh cũng đơn chiều. Nhưng ở văn học viết, dấu ấn cá nhân thể hiện rất rõ trong tác phẩm, cũng là cách tác giả gửi gắm quan niệm sống hay một tư tưởng, mà nhiều khi những thông điệp ấy luôn gây sự tranh cãi cho độc giả. Tác phẩm càng độc đáo thì cách đọc càng đa dạng, phong phú. Với Nguyễn Dữ, một nhà văn lớn, khi dựa vào cốt truyện Vợ chàng Trươngđể sáng tạo nên tác phẩm của mình, ông đã rất linh hoạt trong việc thêm, bớt, thay đổi các tình tiết để tạo nên một Chuyện người con gái Nam Xương mang nét đặc trưng riêng, mang tính gợi mở cao. Như vậy là nàng Vũ chết đã hơn 500 năm, mà xem chừng cuộc sống và cái chết của nàng chưa phải là hết chuyện để nói, nhưng nói như thế nào lại tùy thuộc vào cảm xúc thẩm mĩ của mỗi người trong quá trình tiếp nhận văn chương. Nhưng cũng cần phải hiểu rằng, văn chương luôn có cái lí của nó.

Từ Chuyện người con gái Nam Xương, tìm hiểu thêm các áng văn Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục, ta thấy tác giả đã đa dạng hóa các kiểu nhân vật. Có thể cùng nói về người phụ nữ trong xã hội phong kiến nhưng ở truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu và Chuyện người con gái Nam Xương, mỗi nhân vật mang một sắc thái riêng biệt. Nếu như ở Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đề cập kiểu người phụ nữ không ý thức điều may mắn của mình, để rồi trước thử thách, vì cơn nư trỗi dậy đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, thì trong Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, ông lại xây dựng kiểu người phụ nữ mang bản chất hoàn toàn khác. Nhị Khanh dù đứng trước bi kịch đau đớn nhất do chồng gây ra đã thà chết chứ không có ý định bỏ chồng để ngả vào tay kẻ giàu có. Do một lỗi lầm mà phải lựa chọn cái chết, nhưng Nhị Khanh không ôm mối hận. Dù ở cõi khác nhưng nàng vẫn dõi theo bước chân chồng, có cơ hội là giúp chồng thức tỉnh làm việc tốt.Trọng Quỳ từ chỗ quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, sẵn sàng đưa vợ lên canh bạc, vậy mà kết thúc câu chuyện lại là người biết chăm chỉ nuôi hai con cho nên người.Từ những câu chuyện trên, ta thấy trong xã hội phong kiến nam quyền, mỗi người phụ nữ đều có một bi kịch, dù cách giải quyết bi kịch giống nhau về hiện tượng, nhưng bản chất thì hoàn toàn khác.Điều đặc biệt trong hai tác phẩm là mỗi bi kịch của người phụ nữ đều do người chồng đem đến, nhưng kết thúc câu chuyện, những người đàn ông đều bước qua chính mình, ăn năn hối lỗi và hướng đến điều tốt. Như thế, dù sống trong xã hội luôn đề cao nam quyền nhưng họ đã bắt đầu bớt đi tính bảo thủ. Trương Sinh sẵn sàng làm theo lời vợ nhắn gửi, Trọng Quỳ nghe lời Nhị Khanh mà biết đem lại điều ý nghĩa cho cuộc sống. Qua cách xây dựng nhân vật Trương Sinh và Trọng Quì, ta thấy chế độ nam quyền đã được nới lỏng trong tác phẩm của Nguyễn Dữ. Chế độ nam quyền được nới lỏng thì người phụ nữ cũng bớt đi thiệt thòi, đó chẳng phải là tiếng nói nhân đạo, tôn trọng quyền sống của người phụ nữ được nhà văn gửi gắm khéo léo vào tác phẩm của mình hay sao? Bởi thế, với nhận xét: Song với “Chuyện người con gái Nam Xương” và truyện nữa trong “Truyền kỳ mạn lục” là “Người nghĩa phụ ở Khoái Châu”, câu chuyện kể về nàng Nhị Khanh bị chồng gá bạc nhục nhã tìm đến cái chết để giải thoát, Nguyễn Dữ muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo về thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ thời ông sống phải chịu nhiều bất công, phải chịu sự nghiệt ngã của số phận (Trần Thị Bích Hà, nguồn http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/vu-nuong-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-cua-nguyen-du-cuoc-song-va-cai-chet) thì e rằng người viết chỉ mới có cái nhìn mờ nhạt về hai tác phẩm ấy. Vẫn biết hiện thực phũ phàng, nhưng khi đối mặt với nó, con người biết nhìn nhận và giải quyết ra sao thì mới là điều đáng nói.