phân tích phần truyện ông sáu làm chiếc lược ngà
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bạn giải thích học vấn là gì
Sách là gì đã nha
Tham khảo
https://doctailieu.com/hoc-van-khong-chi-co-duoc-thong-qua-viec-doc-sach
Tình yêu thương không chỉ ở lời nói mà còn phải được thể hiện qua hành động cụ thể. Biểu hiện rõ nhất của tình yêu thương là thông qua hành động lời nói, cử chỉ, thái độ ứng xử của ta với mọi người xung quanh. Tình yêu thương ấy không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình mà còn được mở rộng đối với những người xa lạ hay đối với xã hội. Đó cũng không nhất thiết chỉ là tình cảm cá nhân với cá nhân mà đó còn là tình cảm giữa cá nhân với một tập thể một cộng đồng rộng lớn. Hay đó không nhất thiết chỉ là tình cảm giữa người với người mà đó còn là tình cảm đối với những món đồ vật hay với động vật thế giới xung quanh. Đó là sự rung động xúc cảm, là sự đồng cảm trước mọi sự việc diễn ra trong cuộc sống. Nhìn thấy một cụ già qua đường ta thấy xót thương, rung động và lo lắng. Từ suy nghĩ ấy ta hành động cụ thể bằng việc dắt cụ già qua đường. Nhìn thấy một chú chó bị ai đó vứt bỏ ven đường, ta động lòng và tìm cách giúp đỡ chú. Chỉ vài hành động nhỏ như thế thôi cũng đủ thể hiện tình yêu thương của ta dành cho mọi vật xung quanh. Khi nghị luận xã hội cũng như viết đoạn văn về tình yêu thương con người, ta thấy tình yêu thương được thể hiện trên nhiều phương diện. Đó có thể là tình cảm giữa những thành viên trong gia đình, trong các mối quan hệ như tình yêu thương giữa ông bà, cha mẹ và con cháu, giữa anh chị em, giữa họ hàng thân thiết,… Nhìn thấy mẹ vất vả nấu từng bữa cơm trong gia đình, ta xúc động và tìm cách phụ giúp mẹ. Nhìn thấy bố đi làm vất vả lưng áo đổ đầy mồ hôi, ta cảm thấy xót xa và yêu thương bố nhiều hơn. Thấy tóc của ông bà ngày bạc, lưng càng còng dần xuống, tự nhiên ta thấy lo lắng và quan tâm đến ông bà. Hay đó cũng có thể là tình yêu nam nữ, tình yêu thương giữa thầy cô và học sinh, giữa đồng nghiệp, bè bạn…. Và nó cũng có thể là tình người, tình yêu thương diễn ra đối với những người xa lạ, thoáng lướt qua nhau trên đường. Thấy một cháu bé lạc đường, ta tốt bụng giúp cháu bé tìm về nhà. Hay chỉ đơn giản là một câu chỉ đường với một người xa lạ trên đường. Có thể thấy, tất cả những điều ấy, chính là điển hình cho tình yêu thương. Có thể thấy, tình yêu thương luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của mỗi con người bất cứ khi nào và bất cứ đâu. Trong xã hội hiện nay, nếu như nói tình yêu thương dường như đang dần mất đi và con người càng trở nên vô cảm thì có lẽ không hoàn toàn hợp tình hợp lý. Bởi lẽ bởi vì sự đảo lộn trắng đen của những mặt người tồn tại khiến cho tình yêu thương chỉ là ngọn lửa nhỏ bé mong manh. Tình yêu thương có thể dễ tìm thấy hay không thì có lẽ phải đến từ tác động bên ngoài.
Không nên thay từ lướt bằng từ đi hoặc trôi. Bởi vì từ lướt thể hiện được con thuyền lướt trên biển một cách nhẹ nhàng và nó còn làm hình ảnh thơ trở nên đẹp đẽ, thơ mộng hơn (Cái này mik nói khái quát thôi, tại mình cũng không chắc chắn lắm, bạn có thể dựa vào câu của mình)
Học rộng, tài cao, nhưng Nguyễn Dữ phải sống trong xã hội phong kiến Việt Nam thời kì khủng hoảng, nên ông chỉ làm quan một vài năm rồi lui về ở ẩn, viết sách. Tuy không có nhiều tác phẩm lớn đóng góp cho nền văn học trung đại, nhưng Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục, ông thường viết về những người phụ nữ bị xã hội phong kiến chà đạp, đẩy vào hoàn cảnh bất hạnh, Chuyện người con gái Nam Xương là một trong số đó. Vũ Nương, nhân vật chính trong tác phẩm là người phụ nữ nết na, hiền thục, nhưng phải chịu số phận đau thương, oan nghiệt.
Vũ Nương luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Sống trong gia đình chồng, nàng phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình, đến mẹ chồng cũng phải khen nàng “xanh kia chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ”. Sống với chồng, nàng hết sức giữ gìn khuôn phép, không bao giờ có sự thất hòa giữa hai vợ chồng, nên gia đình luôn êm ấm. Khi Trương Sinh phải đi lính, nàng hết sức lo lắng, phút chia tay, nàng nói với chồng rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu,.. chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Vũ Nương chẳng cần vinh hoa phú quý, chỉ khao khát được đoàn tụ, gia đình sum vầy, hạnh phúc mà thôi.
Thế nhưng nàng cố gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình bao nhiêu thì càng phải chịu đau khổ, bất hạnh bấy nhiêu. Thật oan trái! Bi kịch thứ nhất là nàng bị chồng nghi ngờ một cách vô lí mà không được thanh minh. Những lời biện bạch tha thiết “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng… Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói” đều bị chồng để ngoài tai. Những lời van xin thống thiết, hỏi chuyện đó ai nói: “ Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ”, đều bị chồng gạt phắt đi, anh ta chỉ một mực mắng nhiếc và đánh đuổi nàng đi.
Và một bi kịch tiếp tất sẽ xảy ra, dù nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn sự đổ vỡ vẫn không tránh khỏi gia đình tan vỡ như “bình rơi tram gãy,… sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”. Nàng than khóc mà nghe đứt ruột “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn…”. Đó là nỗi thất vọng tột cùng của Vũ Nương. Không những thế nàng càng đau lòng vì sự trong sáng bị sỉ nhục, tấm lòng thủy chung bị nghi ngờ, nhân cách cao quý của đời người phụ nữ bị xúc phạm nặng nề, nên nàng chỉ còn tìm đến cái chết được minh oan cho mình. Đó là bi kịch thứ ba của cuộc đời nàng.
Cuối cùng, tuy được Linh Phi cứu và được giải oan giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng niềm khao khát hạnh phúc giữa trần gian của Vũ Nương vẫn không thực hiện được. Nàng trở về giữa con sông quê hương, xiêm y lộng lẫy, ngồi trên kiệu hoa nhưng không được trở về ngôi nhà nhỏ bé ấp áp bên chồng con mãi mãi. Đoàn tụ hạnh phúc chỉ là ảo ảnh, chia li tan nát vẫn là hiện thực. Lời nói vĩnh biệt: “thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” thể hiện niềm mong mỏi hạnh phúc không thể thực hiện được vì thế gian đầy bất công này không dành những điều tốt đẹp cho nàng. Hình ảnh Vũ Nương “lúc ẩn, lúc hiện… Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” như ánh sáng đã tàn, gieo vào lòng người đọc nỗi xót xa tột đỉnh.
Cuộc đời Vũ Nương là điển hình cho số phận đau thương của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến suy tàn. Qua đó, em cảm nhận được nỗi đau thương của thân phận sống lệ thuộc của họ. Những người phụ nữ ấy không bao giờ được quyết định cuộc đời mình. Ở nhà phải phục tùng cha, đi lấy chồng phải phục tùng chồng, chồng chết phải phục tùng con trai trưởng của mình, dù cha, chồng, con trai có quyết định vô lí đến đâu. Họ thường bị ép gả vào những cuộc hôn nhân không bình đẳng, không tình yêu với người chồng gia trưởng, độc đoán. Dù bị chồng hành hạ tàn nhẫn cũng phải cắn răng mà chịu, nếu phản ứng lại sẽ bị coi là lăng loan, bị chồng rẫy bỏ, gia đình chồng mắng nhiếc, bị người đời phỉ nhổ, sỉ nhục đến chết. Vì vậy, họ chỉ có thể chọn một trong hai con đường: đi tu thoát tục hoặc chết một cách thảm khốc. Chế độ gia trưởng của thời phong kiến đã cho người đàn ông cái quyền độc tôn trong gia đình, hại bao cuộc đời người phụ nữ.
Nguyễn Dữ viết Chuyện người con gái Nam Xương phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ là góp một bản án về cái chết oan khốc nhằm lên án chế độ phong kiến; đồng thời khơi dậy ở chúng ta niềm cảm thương trước một bi kịch về thân phận người phụ nữ đương thời. Em càng cảm nhận rõ về số phận đau thương vì luôn bị phụ thuộc của họ, vừa cảm phục họ vì như Hồ Xuân Hương đã viết “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/ Mà em vẫn giữ tấm lòng son” (trích Bánh trôi nước) thì càng căm ghét cái xã hội phong kiến bất công.
chưa học
Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn Nam Bộ, suốt cuộc đời cầm bút của mình ông luôn trăn trở và có những suy tư khi viết về cuộc sống con người ở Nam Bộ. Trong thời khắc chiến tranh ác liệt thì nhà văn cũng đã hướng ngòi bút của mình đi sâu, tập trung khai thác được tình người, tình gia đình trong kháng chiến. Và sáng tác “Chiếc lược ngà” là một trong những thành công của nhà văn khi đã miêu tả thật chân thực tình cha con ông Sáu trong chiến tranh. Trong tác phẩm thì nhân vật ông Sáu luôn mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, lắng đọng nhất.
Ông Sáu được Nguyễn Quang Sáng xây dựng trong tác phẩm của mình cũng chính là người nông dân Nam Bộ luôn giàu lòng yêu nước. Ông Sáu lúc đi kháng chiến thì đứa con gái của ông lúc này đây cũng lại chưa đầy một tuổi, mãi đến khi đứa con gái nhỏ lên tám tuổi ông mới có dịp về thăm nhà và gặp lại đứa con yêu ngày đêm ông mong nhớ. Trong những ngày được ở nhà ông Sáu luôn cố gắng dành hết tình yêu thương cho con gái ông, thế nhưng bé Thu đã cự tuyệt tình cảm của ông. Lý do mà bé Thu không nhận ra cha chỉ vì trên mặt ông có vết thẹo khác với người cha trong bức hình mà nó biết. Cho đến phút chia tay ông mới đón nhận được tình cảm của con nhưng thực sự lúc đó chính là giây phút ấy quá ngắn ngủi.
Trong chiến tranh ác liệt ông Sáu như chẳng lúc nào không thôi nhớ nhà và nhớ về đứa con nhỏ của mình. Tình yêu thương vô bờ của ông như cứ tích tụ lại từng ngày, ròng biết bao nhiêu năm cho đến khi được một chuyến về phép thăm nhà. Thực sự trong ông Sáu thì cái tình cha con nôn nao trong lòng anh thật lớn mạnh, những khát khao có đủ sức để có thể đốt cháy lòng ông lúc này là được gặp con và mong mỏi đứa con gái yêu của mình gọi một tiếng ba để ông được sống trong tình cha con hạnh phúc, thứ tình phụ tử mà bấy lâu nay ông từng mong đợi. Chẳng cần phải đời chiếc xuồng cập vào bờ hẳn mà ông cũng nhảy ngay lên bờ khi nhìn đứa bé chạc tuổi con ông và như có một sợi dây vô hình đã khiến ông có cảm giác đó chính là bé Thu – con của ông. Thế nhưng đáp lại sự ân cần và tình cảm đó là sự sợ hãi của bé Thu, sự nghi ngờ và không tin ông Sáu là ba của mình. Ông Sáu buồn lắm và “mặt anh sầm lại trong thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Trong mấy nhà được ở nhà, ông Sáu cũng chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, dường như cũng chính ông mong được nghe một tiếng “ba” từ miệng của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn và với ông sao lại khó khăn như thế. Ông vẫn luôn luôn gần gũi con thì bé Thu càng hất ra và nhất định không gọi ông một tiếng ba nào cả. Ông Sáu như cảm nhận thấy thật khổ tâm và bất lực với con nhỏ quá ương ngạnh. Ông Sáu thương và yêu con của ông nhiều lắm, chính chiến tranh đã là nguyên do lớn để cha con ông không được gặp nhau, và để lại trên khuôn mặt ông vết thẹo dài vừa đau đớn vừa lại là nguyên nhân khiến cho cha con không nhận nhau.
Cho đến lúc chia tay, ông Sáu dường như cũng muốn ôm con hôn con nhưng lại sợ nó từ chối và bỏ chạy, chính vì thế mà ông đành chỉ nhìn con với đôi mắt trìu mến và có biết bao vẻ buồn rầu nhưng rồi trước những biển hiện tình cảm mãnh liệt của con. Ông Sáu lúc đó cũng xúc động khi con bé cất tiếng gọi “ba”. Cảm giác trong ông lúc này đây dường như không kìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc. Ông cũng một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi cũng đã hôn lên tóc con bằng tình yêu vô bờ bến nhất.
Lúc này ông cũng lại thấy dằn vặt day dứt vì ông cũng đã đánh con trong lúc nóng giận, rồi lời dặn của bé Thu khiến ông không thể nào quên được “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe Ba”. Câu nói này dường như đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà để tặng cho con gái của ông. Ông kiếm được khúc ngà thì trong lòng vui sướng, trong mưa bom và bão đạn hình ảnh ông Sáu chiến đấu anh hùng và không quên cứ lúc rảnh lại lôi miếng ngà ra để làm thành cây lược. Khi nhớ con ông mang chiếc lược ngà ra ngắm nghía rồi mài lên tóc để giúp cho cây lược thêm bóng, thêm mượt hơn và tình yêu thương con như được khắc họa trên chiếc lược ngà. Chiến tranh khốc liệt khiến ông Sáu hi sinh thế nhưng tình cha con ở ông thì không thể nào chết được.
Thực sự việc xây dựng lên nhân vật ông Sáu người cha giàu tình yêu thương con cũng đã để lại bao mến phục với độc giả và làm cho tác phẩm “Chiếc lược ngà” trở thành một tác phẩm vừa hiện thực nhưng lại được bao phủ bởi tình phụ tử thiêng liêng nhất.